về với đền hùng

Lăng được thiết kế theo cấu trúc hình vuông với cột liền tường và hướng mặt về phía đông nam. Bên trong lăng có xây dựng mộ vua Hùng. - Đền Giếng: nằm ở phía Đông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung Đặc điểm nổi bật của Đăm Săn: Gợi ý 1: - Đăm Săn là người đàng hoàng, ngay thẳng, tự tin quyết kiệt. - Đăm Săn là một dũng sĩ vô cùng dũng cảm, tài năng, có sức mạnh phi thường, lấn át kẻ thù. Đăm săn là người dũng cảm và có trái tim nhân ái, biết yêu Đền Giẻ Sen (Ảnh nguồn: Hoài Đức Online) Về kiến trúc và lịch sử xây dựng Đền Giẻ. Giữa đầm sen nổi lên một gò lớn chiếm diện tích khoảng 2.000m 2, trên gò có một ngôi đền cổ, tục gọi là Đền Giẻ, thờ Mẫu Thủy Trôi Ao Sen. Tại đền Giẻ Sen còn có phần mộ của Mẫu Thủy và một số di tích gắn Theo truyền thuyết kể lại, đây là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng đến ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Đền thờ 18 đời Hùng Vương cùng vợ con và tướng lĩnh của các Vua Hùng. Đền Thượng đặt trên đỉnh núi có tên chữ là "Kính thiên lĩnh điện" (Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Hoa hậu đền Hùng Giáng My lần đầu chia sẻ cởi mở về cuộc ly hôn bí ẩn khi tuổi đời còn quá trẻ, "Đó là một cuộc khủng hoảng vô cùng lớn Hoa hậu đền hùng giáng my và chồng "Đó là một cuộc khủng hoảng cực kì Khủng. Lúc đó, tôi vừa sinh bé kết thúc và Site De Rencontres En France Gratuit. Thuyết minh về di tích lịch sử Đền Hùng hay nhất10 Bài văn thuyết minh về Đền Hùng lớp 8 Chọn lọc được VnDoc sưu tầm và chia sẻ. Di tích lịch sử đền Hùng gắn liền với tục thờ các vị thần linh trong tín ngưỡng dân gian đa thần, được dân trong các làng xã địa phương quanh khu đền Hùng thờ phụng. Sau đây là tài liệu mời các bạn tham khảoNgoài ra, đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THCS miễn phí trên Facebook Tài liệu học tập lớp 8. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 1Đền Hùng là một quần thể kiến trúc có giá trị văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng vô cùng quan trọng của người Việt, thể hiện đạo lý truyền thống "uống nước nhớ nguồn" đối với vua Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước từ thuở sơ khai của dân Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc vùng đất Phong Châu, là đế đô của nước Văn Lang từ năm trước và nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, đây là vùng đất bán sơn địa, chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có cảnh quan đa dạng, vừa có rừng núi, đồi gò, vừa có đồng ruộng, sông ngòi, ao hồ phong phú. Đền Hùng được xây dựng trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh, đây được biết đến như là ngọn núi cao nhất vùng với cảnh quan trù phú, sinh vật tươi tốt tràn đầy sinh khí. Hơn nữa ngọn núi này cũng là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ trời đất của bậc đế quân cùng quần thần với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống nhân dân được ấm núi mang trên mình dáng vẻ hùng vĩ và đồ sộ như thân hình của một con rồng lớn, đầu rồng ngoảnh về nam, thân rồng uốn lượn tạo thành các dãy núi nối tiếp nhau xa tít. Và nằm san sát phía sau con rồng thiêng liên quyền lực ấy lại là hình ảnh của những đàn voi, lũ bầy tôi trung thành đang thi nhau quay mình hướng về đất tổ. Nhưng cái hùng vĩ ấy chưa dừng lại ở đó, tiếp đến ngã ba Bạch Hạc là sự kết hợp sông nước hùng vĩ. Đây là điểm hội tụ của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc, sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Sông nước cuồn cuộn, sóng xô đá cuồn cuộn cuốn nhau chầu về chân núi Nghĩa Lĩnh. Và nếu bạn đứng từ trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thì có thể bao quát hết cảnh vật, thưởng thức hết vẻ đẹp và khí chất nơi quê cha đất tổ oai hùng bất Hùng là quần thể di tích linh thiêng thấm đượm nhiều giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Khu di tích gồm đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng và lăng vua Hùng. Điểm bắt đầu của khu di tích đền Hùng đó chính là Đại Môn cổng đền, đây là công trình kiến trúc được xây dựng vào năm 1917 theo kiểu vòm uốn với chiều cao 8,5 mét, có hai tầng mái và được lợp giả ngói ống. Bên trên bốn góc tầng mái được trang trí hình rồng và hai con nghê đắp nổi. Nếu bên trên cổng là hình ảnh loài rồng đầy thiêng liêng và sức mạnh thì bên dưới cổng, trên tường lại được đắp nổi phù điêu hai võ sĩ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Một người lẫm liệt tay cầm giáo, một người cầm rìu chiến. Cả hai đều khoác lên mình bộ giáp kiêu sa ẩn chứa vô vàn sức mạnh. Chưa hết choáng ngợp với cảnh sông nước Nghĩa Lĩnh, vậy mà đến cổng đền ta lại được một phen mãn nhãn đến thần hồn điên đảo bởi điểm xuất phát đầu tiên của Đền điểm tiếp theo để tiếp tục cuộc hành trình kỳ thú này là đền Hạ và Thiên Quang Tự. Để đến đây du khách sẽ phải trải qua một hành trình gian nan gồm 225 bậc thang bằng gạch. Đền Hạ đã tồn tại từ thế kỉ 17- 18 với cấu trúc đơn sơ hình chữ Nhị có hai gian. Gian thứ nhất có tên gọi là Tiền bái, gian thứ hai là Hậu cung. Trước của đền Hạ là cây thiên tuế, đây cũng là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già dân tộc đã cất lên lời dặn dò bất hủ về sự nghiệp bảo vệ dân tộc "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".Tương truyền, xưa kia Lạc Long Quân và mẹ u Cơ sinh được 100 người con, 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi khai sơn phá thạch. Trong 50 người con theo mẹ thì người con trưởng lên nối ngôi, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời trong hơn năm từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên.Nằm kề bên đền Hạ là Chùa Thiên Quang, được xây vào thời Trần. Phía trước chùa có cây vạn tuế gần tám trăm năm tuổi, xung quanh chùa có hành lang bao bọc, mái lợp ngói mũi, đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Trước sân chùa là hai tháp sư hình trụ 4 tầng và một gác chuông có tuổi đời vài trăm năm. Trong chùa có trên 30 pho tượng Tam Thế, A Di Đà, Quan âm Nam Hải, Quan âm Tống Từ, Đức Thánh Hiền, Hộ Pháp,... được bài trí trang nghiêm. Kiến trúc hiện nay của chùa theo kiểu chữ Công, gồm Tiền đường 5 gian, Tam bảo 3 gian, và Thượng điện 3 đền Hạ leo thêm 168 bậc nữa là có thể đến đền Trung, đây là nơi vua quan ngự bàn việc dân việc nước và thưởng thức vẻ đẹp đất trời. Đền Hạ có tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, đây là ngôi đền cổ tồn tại từ thời Lý - Trần với cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết và không phụ với ý trời, công sức của chàng đã được đền đáp bằng việc truyền ngôi của vua một hành trình gian nan cuối cùng du khách cũng đặt chân lên đỉnh Nghĩa Lĩnh, và tại đây có đền Thượng với tên gọi là "Kính Thiên lĩnh điện". Đây là nơi thờ Thánh Gióng và vua Hùng. Đền Thượng tọa lạc ở trung tâm trời đất và cũng là trung tâm của khu di tích đền Hùng. Ngôi đền có sân rộng và được tôn tạo lại với kiến trúc cổ để du khách tìm về hành lễ nhưng không được đặt chân vào bên trong các gian thờ. Người ta vẫn thường truyền nhau rằng ngôi đền được xây dựng sau khi Thánh Gióng lập nên đại công, đánh đuổi giặc n khỏi quê cha đất tổ. Và sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc, rồi bay lên trời thì vua Hùng đã đem ngài hóa ở ngôi đền bên cạnh, đó chính là Lăng vua ở phía Đông đền Thượng, đây là mộ Hùng Vương thứ 6 với cấu trúc hình vuông có cột liền tường. Trong lăng là khu mộ vua Hùng với kích thước dài rộng cao 1m. Điểm đến tiếp theo và cũng là điểm cuối của chuỗi di tích đó chính là đền Giếng, chặng cuối này nằm ở ông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, theo kiểu kiến trúc chữ Công gồm gian Tiền bái, ống muống, và Hậu cung. Đền xây vào thế kỷ 18, đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc. Bên trong đền có giếng Ngọc nước trong veo quanh trong những địa điểm đáng để đặt chân đến của khu dích tích đó là Bảo tàng Hùng Vương, nơi đây được thiết kế mô phỏng hình ảnh bánh chưng bánh dày và trưng bày nhiều hiện vật từ thời vua Hùng, bảo tàng đã giới thiệu khái quát sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các vua Hùng thông qua các nội dung trưng bày với các chủ đề khác nhau. Hằng năm cứ vào đúng ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch thì khu di tích Đền Hùng lại long trọng tổ chức giỗ tổ Hùng Vương với nhiều hoạt động, sự kiện long trọng nhằm bày tỏ lòng biết ơn, gợi nhớ lại công lao của các vị Vua Hùng đã có công lớn trong việc xây dựng nền móng nước nhà. Cùng với thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tích hợp nhiều giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn dân tộc "Ăn quả nhớ người trồng cây"; "Uống nước nhớ nguồn"; sự đoàn kết sâu rộng của cộng đồng dân tộc tạo nên tính cộng đồng sâu cúng Hùng Vương đã trở thành truyền thống quý báu không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Điều đó đã tạo nên triết lý nhân văn sâu sắc, động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn hóa nhân loại. Thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ dòng tộc giữa các Vua Hùng với mọi thế hệ trong cộng đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Đó là sợi dây liên kết các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ thời đại sơ khai của các vua Hùng cho đến thời đại văn minh của Hồ Chí Minh, thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau đậm đà tính dân tổ chức Giỗ Tổ Hùng vương được Nhà nước, chính quyền địa phương tổ chức trang trọng, trong đó nghi lễ quan trọng nhất là Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Đền Thượng, thể hiện sự biết ơn đối với công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có lễ hội đền Hùng với các trò chơi dân gian và các cuộc thi đậm chất truyền thông như hát Xoan, hát Ghẹo, Hội trại văn hóa. Đến năm 1962 nhà nước ta đã quyết định công nhận Đền Hùng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, đây cũng là một trong 10 di tích được xếp hạng "Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp Quốc gia" đợt đầu tiên vào năm Hùng, khu di tích gắn liền với chiều dài lịch sử của dân tộc và ẩn chứa những giá trị về kiến trúc, văn hóa sâu sắc. Chúng ta cần tự hào và ra sức bảo vệ, phát triển và truyền tải niềm tự hào này đến với bạn bè quốc minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 2“Dù ai đi ngược về xuôi,Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.”Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phúc cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương thứ nhất.Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu trong dân gian gọi là mộ tổ từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống… Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan tức hát ghẹo, một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bừng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 3Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Phong Châu là đế đô của nước Văn Lang, từ năm trước. Đấy là đất Tổ của dân tộc Việt truyền, xa xưa, các vua Hùng lựa chọn nhiều nơi, cuối cùng mới tìm được thánh địa này để đóng đô. Nơi này ở phía trước có sông tụ hội, hai bên có núi chầu hầu. Bãi sông tiện lợi cho sinh hoạt nhân dân. Đất đai màu mỡ thích hợp việc cày cấy, trồng trọt. Đất gò đồi cao thuận lợi việc lập ấp mở nay, những dấu tích phát hiện được trong các đợt khai quật khảo cổ ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Làng Cả… cho thấy quanh vùng đất Phong Châu đều có tính chất tiêu biểu. Điều này chứng minh rằng đây là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ thời Hùng Vương. Cuộc sống vật chất và tinh thần của con người ở đây đã đạt tới đỉnh cao văn minh lúc bấy sử cũ, sau khi định đô ở Phong Châu, các vua Hùng đã chọn núi Nghĩa Lĩnh làm nơi tế trời đất, chủ thần và tiên tổ. Với những cái tên được gọi qua nhiều thời điểm khác nhau như là Hy Chương, Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh, núi Hùng, núi Nghĩa Lĩnh cao 175m, nằm trên địa phận thôn Cổ Tích. Cây cối ở đây um tùm, xung quanh là gò đồi nhấp nhô trùng điệp. Tương truyền có tất cả 99 ngọn đồi vốn là 99 con voi có nghĩa phủ phục chầu núi Tổ, riêng có 1 con bất nghĩa, quay ngược lại bị chém đầu. Vì vậy, vùng này có một quả đồi có vết xẻ thành khách đi đến đền Hùng, từ Hà Nội qua Cổ Loa, Đông Anh, khu công nghiệp Việt Trì, khu mộ cổ Làng Cả, cầu Bạch Hạc là nhìn thấy núi Hùng, núi Trọc, núi Văn in hình trên nền trời. Sau đó, tới Ngã Ba Đền Hùng, du khách rời đường lớn, rẽ vào con đường đất đỏ như xẻ qua đồi, dưới rừng cây tỏa rợp bóng mát. Cổng đền Hùng hiện ra ở chân núi phía Tây, bên những gốc thông đại thụ cao vút. Cổng xây theo kiểu tam quan, hai tầng, góc mái uốn cong. Bờ nóc có "lưỡng long chầu nhật". Cửa chính giữa cao rộng. Cách hai tường ngắn là hai cột trụ, đỉnh có đắp đèn lồng, con nghê. Phía trên cửa chính có 4 đại tự "CAO SƠN CẢNH HÀNG" có nghĩa là "NÚI CAO ĐƯỜNG LỚN".Du khách phải trèo lên 255 bậc đá để đến Đền Hạ. Theo truyền thuyết, ở đây bà Âu Cơ đẻ bọc trăm trứng, nở thành trăm người con 50 theo cha là Lạc Long quân xuôi về miền biển, 49 người theo mẹ lên núi, để lại 1 người làm vua nước Văn Lang. Đấy là vua Hùng thứ nhất. Trong khu vực đền Hạ có chùa Thiên Quang. Trước cửa chùa là cây thiên tuế sống được 700 năm. Tại nơi này, vào ngày 19 tháng 8 năm 1954, Hồ chủ tịch đã nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ sư đoàn 308 có nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Hà Nội. Bác dặn "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".Từ Đền Hạ, qua nhà đặt bia xinh xắn, bên gốc đại thụ, đi xuống chân núi ở mặt Đông Nam khoảng vài chục bậc đá, du khách đến được Đền Giếng. Đây là nơi thờ hai vị công chúa là Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái vua Hùng thứ 18. Trong đền có Giếng Ngọc. Tương truyền, hồi chưa hạ giá, hai công chúa vẫn còn ra đây soi bóng chải tóc. Bây giờ du khách hãy trở lại Đền Hạ, leo 168 bậc lên Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng thường đến họp bàn việc nước với quần thần. Tiếp tục lên 102 bậc đá nữa, du khách đến được Đền Thượng, nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời Đất, Thần Núi và Thần có bức hoành phi lớn đề 4 đại tự "NAM QUỐC SƠN HÀ". Trước đền Thượng có một cột đá lớn, dựng trên bệ cao, khói hương ám đen kịt, được gọi là đá thề. Tương truyền đây là nơi vua Thục Phán đã nguyện xin đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ nghiệp họ Hùng truyền lại. Phía bên đền Thượng, thấp hơn vài chục bậc lăng là vua Hùng, tượng trưng cho mộ tổ xây dựng vào đầu thế kỷ 20, kiến trúc giản dị đơn sơ. Toàn bộ khu di tích hiện nay bao gồm 4 đền 1 chùa, 1 lăng, đều được trùng tu hoặc xây thêm cách nay vào khoảng trăm lời kể của các cụ già ở địa phương, đền Trung có sớm nhất, do thôn Trẹo tên nôm của làng Triệu Phú, có đông người họ Trẹo, nay đổi thành Triệu xây dựng từ thời xa xưa để thờ các vua Hùng. Sau làng Trẹo đông dần, chia thành ba làng là Triệu Phú, Cổ Tích, Vi Cương. Hai làng mới cũng lập đền thờ trên núi. Làng Cổ Tích dựng đền Thượng. Làng Vi Cương dựng đền Hạ. Triệu Phú là làng gốc vẫn trông nom thờ cúng đền Trung như bài vị thờ các thần núi có tên nôm na là núi Cả, núi Văn, núi Trọc và tên chữ Hán là "Đột Ngột Cao Sơn", "Ất Sơn" núi gần, "Viễn Sơn" núi xa đặt trong các đền. Vỏ trấu lớn bằng đá, về sau làm lại bằng gỗ thờ ở đền Thượng. Tảng đá "cối xay" đường kính trên 2m ở trên núi Trọc được chú ý bảo tồn. Những mảnh đá lớn kê hai bên bệ thờ ở đền Hạ là những dấu tích gợi nhớ những nghi thức thờ cùng nguyên thủy của cư dân thời Hùng đền Hùng, một loạt tên đất, tên xóm làng còn vang vọng một thời Xã Thậm Thình là nơi xã giã gạo cho vua, Kẻ Sủ, nơi làm việc cho các quan, Kẻ Đợii là chỗ rèn luyện quân sĩ, Kẻ Gát, nơi vua dựng lầu kén rể, Khu vực Đền Hùng được bảo vệ, tôn tạo khá chu đáo. Đường đi được làm thêm vào thời gian gần đây; bậc đá lên đền được sửa lại; cây được trồng thêm. Ngoài ra, còn xây thêm khu công quán, đào hồ chứa nước Lạc Long Quân…Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn xuống, du khách thấy phía xa xa là Ngã ba Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông Hồng. Xưa kia, mênh mông như biển cả. Phía bên trái là dãy Tam Đảo hùng vĩ. Phía bên phải là ngọn Ba Vì mờ mờ xanh ẩn hiện… Đồng ruộng, đồi cọ, vườn chè, làng xóm trù phú, cảnh đẹp như tranh, vùng trung du trải rộng ra trước mắt. Đây đó rải rác những đầm hồ lớn lấp loáng như gương dưới ánh minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 4Trên đất nước Việt Nam yêu dấu có rất nhiều cảnh đẹp. Nhưng cảnh đẹp mà tôi tự hào nhất là Đền Hùng – nơi thờ các Vua Hùng thời xưa đã có công dựng nước. Đền Hùng là một thắng cảnh đẹp, một di tích lịch sử có ý nghĩa nhất đối với người Việt Nam vì đó là nơi thờ cúng, tưởng niệm của vua Hùng, tổ tiên chung của cả dân Hùng nằm ở phía tây bắc Hà Nội, cách Thủ đô chưa đầy 90km. Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng hay còn được gọi là núi Cả, núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiêu Sơn,…. Núi có độ cao 175m so với mặt nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Văn, núi Trọc, núi Pheo. Núi Vặn cao 170m, xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145m. Theo truyền thuyết, ba đỉnh núi này là ba đỉnh “Tam sơn cấm địa” được dân gian thờ từ rất lâu cảnh nơi đây mới hùng vĩ làm sao! Ở đó núi non trùng điệp, rừng cây bạt ngàn xanh tốt. Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nhìn thấy dòng sông Lô hiền hòa, trong vắt, những xóm làng ẩn hiện trong vườn cây trái như một bức tranh đầy màu sắc. Từ núi Nghĩa Lĩnh có thể’ quan sát được cả một vùng rất rộng của trung tâm Bắc Bộ với ngã ba Hạ, nơi sông Lô đổ nước vào sông Hồng, với các dãy núi Tam Đảo, Ba Vì và các dãy đồi lượn sóng xen kẽ giữa những cánh đồng tốt tươi, những vùng quê trù phú của vùng trung bộ khu di tích gồm 4 đền, 1 chùa và một lăng hài hòa trong phong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất đẹp mắt. Cao nhất là Đền Thượng, thấp nhất là Đền Giếng. Các Đền được xây dựng theo một kiến trúc cổ kính. Sau khi qua cổng chính của khu di tích, qua 225 bậc đá, là lên đến đền Hạ. Ở khu vực Đền Hạ có chùa Thiên Quang và cây Thiên Tuế 700 tuổi; gần đó có đền Ngọc và giếng Ngọc. Từ Đền Hạ theo 168 bậc đá nữa là Đền Trung và lên tiếp 102 bận nữa thì lên Đền Thượng và có lăng vua Hùng, tượng trưng cho mộ đền được xây theo kiểu vòm cuốn. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ; giữa tầng một có đề bức đại tự “Cao sơn cảnh-hành” lên núi cao nhìn xa rộng. Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần. Qua cổng chính là Đền Hạ. Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây. Ngay chân Đền Hạ là nhà bia, trên đỉnh có đắp hình, nậm rượu. Nơi đây đặt bia đá ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945 “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Gần Đền Hạ có ngôi chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ ngồi nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ. Chùa có một gác chuông được xây dựng vào thế kỉ XVII. Tiếp đến là Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Đây cũng là nơi vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để cử hành những buổi lễ thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ đến là Lăng Hùng Vương, tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng hình vuông, tầng dưới bốn góc đắp bốn con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc”. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, hai bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong lãng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái mui Đền Thượng, đi tham quan một đoạn nữa là đến Đền Giếng tên chữ là Ngọc Tỉnh, tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18 thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời, cổng Đền Giếng có kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên núi Ốc Sơn núi Vặn. Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải dưới chân núi là Bảo tàng Hùng Vương. Trong Bảo tàng có nhiều hiện vật, tranh ảnh, tượng lớn khắc hoạ chủ đề “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”. Vào những ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cờ, hoa, biểu ngữ được trang hoàng khắp mọi nơi. Cờ bay đỏ những cành cây, đỏ những mặt hồ. Trong những ngày lễ, Đền Hùng càng đông khách thập phương đến tham quan và thắp hương, tưởng nhớ ghi dấu công ơn của các vua Hùng. Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử — văn hóa đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam!Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 5Trong tiềm thức của mỗi người Việt Nam, về với Đền Hùng là cuộc hành hương trở về nguồn cội, tìm lại những dấu ấn lịch sử hào hùng thời Vua Hùng dựng nước.“Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng baKhắp miền truyền mãi câu caNước non vẫn nước non nhà ngàn năm”Cụm di tích Đền Hùng trên một ngọn núi cao hùng vĩ. Bàn thờ Tổ được đặt trên ngọn núi Nùng Nghĩa Lĩnh thuộc thôn cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Núi Nùng cao 175m nổi lên án ngự vùng đồi Phong Châu Bạch Hạc. Đền Hùng là tên chung chỉ bốn ngôi đền và một ngôi lăng trên Núi Nùng. Từ cổng chính đi lên là Đền Hạ, theo truyền thuyết đây là nơi bà Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con tạo thành sức mạnh Việt nữa là Đền Trung nơi các vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và trên đỉnh núi là Đền Thượng với bốn chữ vàng “Nam Việt Triệu Tổ” Tổ muôn đời nước Việt Nam. Đây là nơi Vua Hùng thờ Thánh Gióng và làm lễ tế trời đất cầu mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt, muôn dân ấm no. Cạnh Đền Thượng là ngôi Lăng nhỏ thường gọi là mộ Tổ mang ý nghĩa tượng trưng. Từ Lăng đi xuống về hướng Đông, dưới chân núi là Đền Gióng nơi xưa hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con Vua Hùng thứ 18 soi gương nước trang điểm, vì thế giếng còn có tên là Giếng Ngọc. Giếng ấy nay ở trong lòng trước Đền Thượng đỉnh Hùng Sơn nhìn ra tám phương bốn hướng, trải ra trước mắt một vùng trung du tươi đẹp và bạt ngàn đồi cây xanh tốt, lấp lánh ánh nước ngã ba sông. Những ngôi nhà mới và những nhà máy mọc lên khiến cho cảnh vật thêm sinh động. Con người cảm thấy thực sự nhỏ bé trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Sự đổi thay của đất và người Phú Thọ đã tô điểm thêm vẻ đẹp cho khu di tích Đền Hùng lịch sử. Sừng sững phía Đông là dãy Tam Đảo chạy dài như bức trường Tây chót vót ngọn Tản Viên trấn ngự. Sông Đà, sông Lô, sông Thao hợp nước chầu về Đền Hùng càng làm tăng vẻ hùng vĩ cho khu di tích “Xem địa thê trùng trùng long hổ Tả đảo Sơn mà hữu Tản Viên Lô, Đà hai nước hai bên Giữa sông Thao thủy dòng trên Nhị Hà” Cố đô Văn Lang xưa, Nghĩa Lĩnh – Việt Trì là cái nôi của huyền thoại. Sông núi cỏ cây mang nặng hồn đất nước, đem đến cho khách thập phương những câu chuyện nửa thực nửa hư mà rất đẹp. Làng Lúa xưa là nơi Vua Hùng dạy dân trồng xã dọc sông Lô là nơi Vua Hùng đi săn cùng các Lang và các Mỵ Nương. Làng Hương Trầm, xã Lâu Thượng là nơi hoàng tử Lang Liêu làm ra bánh chưng, bánh dày dâng lễ chúc thọ Vua Hùng. Ngã ba sông là nơi Vua Hùng thứ 18 lập lầu kén rể chọn chồng cho công chúa, nơi diễn ra cuộc so tài giữa thần Núi và thần Nước để giành người đẹp…“Tháng ba nô nức hội đềnLà ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay”Về hội Đền Hùng là tìm về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, tìm về tuổi ấu thơ trong chiếc nôi với lời ru sông núi của mẹ Âu Cơ; là nhớ về tổ tiên một thời lập quốc với dấu tích của một thời đại Vua Hùng, về với Đền Hùng là về với nguồn cội, về với bản sắc văn hóa của người Việt Nam, cùng cầu chúc mọi điều tốt đẹp đến với tất cả mọi minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 6Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng trông xa giống như đầu của một con rồng lớn hướng về Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo. Phía sau núi Hùng có những quả đồi lớn san sát nối liền dài tới 10km giống như đàn voi chầu về Đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc với sự hợp lưu của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc sông Hồng, sông Lô, sông Đà tạo ra một vùng nước lớn mênh mông, từ đó có những quả đồi thấp lô nhô giống như một đàn rùa nước bò lên chầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy Tam Đảo trùng điệp núi mẹ, xa về phía nam là dãy Ba Vì cao ngất núi cha tụ núi Hùng còn có những quả đồi như phượng cặp như Tiên Kiên, hổ phục Khang Phụ – Chu Hoá. Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ hữu tình. Tương truyền vua Hùng đã đi khắp mọi miền, về đây chọn làm đất đóng đô. Quần thể Khu di tích lịch sử đền Hùng gồm đền Hạ và chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng và Lăng Vua Hùng, đền Giếng, đền Tổ Mẫu u Cơ, đền Quốc Tổ Lạc Long Quân cùng với đó là các công trình phụ trợ nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh của đồng bào cả nước về Giỗ Tổ Hùng Vương hàng nămĐầu tiên là đền Hạ được xây dựng vào thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị = gồm Tiền bái và Hậu cung. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi. Tương truyền rằng nơi đây, mẹ u Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ u Cơ mang theo 49 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng theo là chùa Thiên Quang, chùa xưa có tên gọi là " Viễn Sơn Cổ Tự" sau đổi thành "Thiên Quang Thiền Tự ". Chùa được xây dựng vào thời Trần đến thế kỷ XV xây dựng lại, thời Nguyễn chùa được đại trùng tu. Hiện nay chùa có kiến trúc kiểu chữ công I gồm ba toà tiền đường 5 gian Tam bảo 3 gian và Thượng điện 3 gian các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột, kèo suốt cài nóc. Phía ngoài có hành lang xây xung quanh. Mái chùa lợp ngói mũi có đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa. Trước cửa chùa có cây Vạn tuế có tuổi gần tám trăm năm. Nơi đây ngày 19/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, Bác đã ngồi làm việc bên gốc cây Vạn Trung có tên là Hùng Vương Tổ miếu được xây dựng vào thời Lý – Trần. Đến thế kỷ XV bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại, kiến trúc hiện nay kiểu chữ nhất - 3 gian, kiến trúc đơn sơ không có cột, kèo cầu quá giáng cột trốn gối vào tường, mái lợp ngói mũi. Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh Thượng có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện, đến thế kỷ XV đền được xây dựng quy mô, vào thời Nguyễn triều đình cấp tiền, cử quan về giám sát việc đại trùng tu. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Ngày 18/9/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đền Hùng, người đã nghỉ trưa ở cửa ngách Đông Nam đền Thượng trước khi về Bác căn dặn phải trồng cây cối. Xây dựng Đền Hùng thành công viên lịch sử cho con cháu sau này thăm lăng Hùng Vương, tương truyền là mộ vua Hùng thứ 6, trước khi chết có dặn hãy chôn ta trên núi Cả để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu. Xưa là mộ đất, đến thời Tự Đức năm thứ 27 1870 cho xây Lăng Mộ, thời Khải Định năm thứ 2 1922 được đại trùng tu như ngày nay. Đền Giếng có tên chữ là Ngọc Tỉnh. Tương truyền là nơi hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái Vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai nàng là người có công dạy dân trồng lúa, trị thuỷ nên nhân dân lập đền thờ. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18, đền được xây dựng lên trên giếng nên hiện nay giếng ở bên trong hậu cung của đền bốn mùa nước trong mát, không bao giờ cạn. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ công I gồm Tiền bái, ống muống, Hậu cung, hậu cung được xây dựng kiểu chuỗi vồ. Mái đền lợp ngói mũi, bờ nóc trang trí lưỡng long chầu Tổ Mẫu u Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn Tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn. Đền được xây dựng nhằm thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu u Cơ người mẹ thiêng liêng huyền thoại của dân tộc Việt đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được xây dựng dưới chân núi Sim vào năm 2006. Trong đền đặt tượng Quốc Tổ Lạc Long Quân, tượng Lạc Hầu, Lạc Tướng được đúc bằng đồng. Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân tạo thành một quần thể kiến trúc cảnh quan, góp phần bảo tồn, tái tạo hình ảnh lịch sử, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong việc thờ tự thuỷ tổ dân tộc. Nhằm giáo dục các giá trị truyền thống dân tộc. Có lẽ đến thời Hậu Lê thế kỷ XV, khu di tích lịch sử Đền Hùng mới được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như như hiện nay. Và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, với câu ca đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân đất Việt“Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng baKhắp miền truyền mãi câu caNước non vẫn nước non nhà ngàn năm”.Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 7Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi, các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu mong yên bình, làm ăn thành cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật chèo, kịch nói, hát quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng,cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các vua minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 8Là người dân nước Việt ai cũng biết câu caDù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng baKhắp miền truyền mãi câu caNước non vẫn nước non nhà ngàn nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Giỗ Tổ Hùng Vưong – từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc, đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đít Cội nguồn – xã Hy Cương – Lãm Thao – Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Việt Nam may mắn khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày nay hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên, Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng Đền Hùng. Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng baDù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng baLễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Từ thuở xa xưa có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng vềtổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc Uống nước nhớ nguồn. 41 làng xã thuộc tỉnh Phú Tha tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới". "Xưa kia, việc cúng Tổ cử hành vào ngày 12 tháng 3 âm lịch hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 âm lịch…Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn môt lần vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ, có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm”. Những năm hội chính thì phần lễ gồm Tế lễ của triều đình, sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức "uống nước nhớ nguồn" nên giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 – sau khi Chính phủ mới được thành lập – là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền và trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe dọa trở cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chiến tranh ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm. Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng Điện Biên Phủ 7-5­1954, ngày 19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực hiện vào mùa xuân 1975. Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung raột gốc cội tổ tiên – một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt nay việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ hàng năm vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn 5 năm một lần, Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội. Phần lễ được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trongtoàn quốc,… được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng nào được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật tế Sáng sớm ngày mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành tới chân núi đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau kiệu lễ, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh nãm chẩn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biếu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước có thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con hội diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa thể thao,… được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ. Các trò chơi văn hoá dân gian được bảo lưu có chọn lọc như đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng cờ người… Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi hài”, “Rước chúa gái”, “Rước lúa thần” và trò “Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp chèo, kịch nói, hát quan họ,… Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lun văn hoấ giữa các vùng. Các nghệ nhân người Mường mang đến lễ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời đóng trên đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dàn hạnh phúc. Những làn điệu Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng Trung du Đất này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Tổ tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ của mình, giữ đúng kỷ cương, vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phất triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam…Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ 10-3 âm lịch vẫn là điểm của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 9“Ta về tìm lại ngày xưaTrời xanh rất vắng, nắng trưa rất vàngTa về gom những mơ màngTìm trong trầm tích Văn Lang một thời.”Trích thơ Văn Việt TrìQua những vần thơ trên đã diễn tả những cảm xúc dạt dào, tha thiết về cội nguồn của dân tộc, về lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, của các vị vua ở bất cứ đâu những người con Việt Nam mãi luôn nhớ về những chiến công vang dội, những công lao to lớn đặt xây nền móng đầu tiên từ lúc sơ khai của đất nước Việt Nam. Hằng năm, cứ đến mồng 10 tháng 3 là con dân ở khắp đất nước, kiều bào đều tụ hội về đền Hùng để tưởng niệm, nhớ ơn, thể hiện tấm lòng thành kính trước tổ tiên, thế hệ đi trước, đây cũng chính là nét văn hóa lâu đời từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.“Cây có cội, nước có nguồn”, cội nguồn của dân tộc Việt Nam là hai tiếng đồng bào thân thương, gắn liền với truyền thuyết xa xưa Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng với 50 người con xuống biển, 50 người con lên non thay nhau cai quản. Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên ra đời và phát triển trên nền tảng của nền văn hóa sơn vi rực rỡ. Khu di tích Đền Hùng nằm trên vùng đất Đế Đô của nhà nước Văn Lang đã mang trong mình từ chiều dài từ hàng ngàn năm lịch sử. Nằm trong khu vực trung tâm chính của nhà nước Văn Lang, được tọa lạc vị thế độc đáo ngay giữa hai dòng sông biếc bao bọc lấy cố Hùng được dựng núi Nghĩa Linh giữa vùng đất Phong Châu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trải dài từ chân núi đến đỉnh núi Nghĩa Linh với chiều cao 175 mét. Núi Nghĩa Linh hay còn được gọi là núi Cả hay núi Hùng là ngọn núi cao nhất ở đây. Núi Hùng trông từ xa như một cái đầu rồng lớn đầy uy nghi, hùng vĩ, uốn lượn trong mây trời, ở phía xa xa là dãy núi san sát nối liền nhau xa tít tận chân trời. Tương truyền vua Hùng phải đi khảo sát nhiều nơi, mới có thể tìm ra vùng đất ngút ngàn linh khí, hòa hợp giữa đất trời, thiên nhiên, vạn vật này để định đô, có lẽ vì thế mà dù trải qua hàng nghìn năm nhưng những cảnh sắc, cây cỏ nơi đây vẫn luôn mang sự huyền ảo, rực rỡ, cuốn hút đến thấp nhất ở chân núi chỉ cần leo thêm 168 bậc nữa là sẽ đến đền Trung, đây là ngôi đền được biết đến xây dựng vào khoảng thế kỷ 14 và được trùng tu vào những năm 1988. Nhắc đến đền Thượng, người dân xưa thường tương truyền đây là nơi thường diễn ra các buổi tế lễ, cúng kiến cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đất nước thịnh vượng, thái bình. Mộ của vị vua Hùng thứ 6, tương truyền ông là người lảnh đạo nhân dân Văn Lang chống lại sự xâm lược của nhà Ân, được đặt phía bên trái của đền Thượng, mặt lăng qua theo hướng đông nam, vốn là một mộ đất.“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”, quả thật vậy hoạt động văn hóa, lễ hội như mang tính truyền thống gắn kết của cả một dân tộc, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ chân núi sẽ là nơi thấp nhất gọi là đền Hạ đây là nơi được người xưa kể rằng mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc 100 trứng sinh ra con người Văn Lang. Tiếp lên trên sẽ là đền Trung là nơi bàn chính sự, hội họp, bàn bạc việc quan trọng của vua và các quần thần. Và lên cao nhất ở đỉnh núi đó là đền Thượng, đây cũng chính là nơi thờ của vi vua Hùng thứ 6. Hằng năm, con dân từ khắp đất nước đều tụ hội về đền Hùng trang trọng cung kính biết nghi thức trang nghiêm này còn có các hoạt động văn hóa đa dạng như lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đây là hình thức lễ hội vô cùng trang nghiệm, kính lễ với các bậc đi trước, những người đã khuất, mọi người sẽ nâng kiệu từ ở dưới chân núi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Đoàn người nâng kiệu ăn mặc gọn gàng, trang trọng và cẫn thận nhất, mỗi người cầm một loại vũ khí thời xưa để mô phỏng tái hiện lại công lao to lớn của ông cha ta. Tiếng chiêng, tiếng trống rộn rang, đoàn rước kiệu đi đến đầy tiên là “điện kính thiên”, tại đây cả đoàn sẽ tạm dừng để thực hiện nghi lễ dân nghi thức dâng hương mọi người sẽ tiếp tục di chuyển lên đến ngôi đền cao nhất đền Thượng, vị đại biểu cho nhân dân cả nước sẽ đứng lên phát biểu sự trân trọng, biết ơn đối với các vị vua Hùng, những hy vọng mong ước an lành thịnh vượng của đất nước. Bên cạnh lễ hội truyền thống còn có các sinh hoạt văn hóa cổ xưa như chọi gà, đấu vật, đánh cờ người. Đặc biệt là nghệ thuật hát xoan, chèo, quan họ đặc trưng của dân tộc ta, làn điệu mượt mà như cuốn hút con người về với đất tổ thân thương, hòa mình vào truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc từ ngàn đời. Với đa dạng các hoạt động cổ xưa, truyền thống, mỗi năm cứ đến mùng 10 tháng 3 là lượt khách đến thăm đền Hùng lại vô cùng đông đúc, ai cũng muốn được bày tỏ sự biết ơn của mình, trân trọng sâu hội đền Hùng là một phong tục tập quán có từ ngàn đời, nối gót thế hệ đi trước luôn gìn giữ và phát huy những giá trị đẹp của dân tộc. Ai ai đến đây đều mang trong lòng sự thành kính đối với các vị vua Hùng, làm cho chúng ta càng thêm tự hào về nguồn cội con rồng cháu tiên, về truyền thuyết bọc trăm trứng từ xa xưa của cả một dân tộc kiên cường, anh hùng. Khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009 được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt quốc gia. Năm 2011, nghệ thuật hát xoan, khúc hát vang dội dấu ấn lịch sử Hùng Vương đã trân trọng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được gìn giữ và phát tổ Hùng Vương, là lễ hội lớn của dân tộc ta, về với đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc thân thương, về với những chiến công hiển hách, công lao dựng nước giữ nước của ông cha ta. Đền Hùng đã và đang ngày càng khẳng định nét văn hóa, di sản to lớn đáng tự hào của đồng bào dân tộc Việt Nam qua bao đời thế minh về lễ hội Đền Hùng mẫu 10Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng baBất cứ những người con Việt Nam nào dù đi đâu về đâu cũng đều nhớ tới những giá trị văn hóa của dân tộc, nhớ tới những lễ hội tôn vinh chiến công, công sức dựng nước của mười tám vị vua Hùng- những người đã xây những nền móng đầu tiên của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, năm nào cũng thế, vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, cả nước đều hướng tới Đền Hùng- Phú Thọ. Đây là nơi thờ tụng những vị vua Hùng và là nơi tổ chức lễ hội vào những ngày này. Nhà nước quy định, vào những năm chẵn sẽ được tổ chức theo nghi lễ của quốc gia còn những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ phụ trách. Nhưng dù có ở năm nào đi chăng nữa thì vào những ngày này, mọi người ai cũng muốn được tới nơi đây để thể hiện tấm lòng thành kính của mình dâng lên cho tổ tiên và những người đi trước. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của đất nước chúng hội Đền Hùng và giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hằng năm vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch. Những ngôi đền thờ các vị vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây thể hiện một cách vô cùng sâu sắc những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống của nhân dân. Lễ hội được bắt đầu cũng từ chính thời đại của vua Hùng Vương trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cũng chính bởi những lí do như vậy mà việc chúng ta suy trì lễ hội này và được tổ chức với quy mô lớn qua các năm càng chứng tỏ tấm lòng của nhân dân, những người thuộc thế hệ đi sau vẫn luôn nhớ tới với niềm biết ơn sâu sắc những vị cha ông ta đã hi sinh để bảo vệ cho đất đây, chúng ta cũng nhận thấy một cách sâu sắc lòng yêu nước của dân tộc chúng ta. Trong những dịp lễ như thế này, chúng ta không thể nào quên được lễ hội Rước kiệu. Đây là một trong những công việc thể hiện sự nghiêm trang, kính lễ tới những người đã khuất. Không khí của buổi lễ vô cùng nghiêm túc, không hề có những hành động như cười đùa, nghịch ngợm. Mọi người sẽ nâng kiệu đi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Trên đó là những lễ vật như xôi, gà, bánh chưng,… Đó đều là những món cúng truyền thống của dân tộc chúng ta. Tất cả sẽ được xếp một cách gọn gàng và đẹp đẽ ở trong năm bộ kiệu. Đoàn rước kiệu thường được tổ chức một cách vô cùng trang nghiêm và cẩn thì đó chính là những người có sức khỏe tốt, ưa nhìn được xã lựa chọn. Họ đều mặc những đồng phục thống nhất và gon gàng. Mỗi người lại mang những vũ khí thời xưa được phóng tác lại bằng gỗ như đao, chùy, cờ, long,.. để mô phỏng lại như thời ngày trước. Đoàn rước kiệu đi tới đâu, tiếng chiêng tiếng trống như rộn ràng tới đó. Sau đó, những đoàn đại biểu sẽ xếp hàng chỉnh tề để đi sau kiệu và cùng nhau lần lượt đi theo kiệu lên tới trên đỉnh. Điểm dừng đầu tiên chính là “Điện kính thiên” . Lúc ấy, cả đoàn dừng lại và thực hiện nghi lễ dâng hương. Cả bầu không khi như khẩn trương và trang nghiêm vô cùng. Mọi người ai cũng chăm chú để theo dõi quá trình dâng hương tới thần theo, mọi người đi vào trong thượng cung của đền Thượng. Đây là ngôi đền cao nhất và là ngôi đền chính trong số những đền ở đây. Do đó, tại nơi này, thường thì sẽ có một vị lãnh đạo đại diện cho nhân dân cả nước phát biểu cảm ơn những gì mà ông cha ra đã để lại, sau đó sẽ hứa cố gắng hơn cho những năm sau, cầu mong sự an lành và kinh tế đất nước phát triển. Thường thì nghi lễ này sẽ được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng theo dõi và phát lại trực tiếp để cho dân chúng cả nước cùng nhau theo dõi. Tất cả mọi người lúc này, ai nấy đều nói thầm những lời nguyện cầu từ trong trái tim của mình, mong nhận được sự phù hộ bình an của tất cả thần linh dành cho con phần lễ tế những vị vua Hùng là phần hội. Đây cũng là phần được mọi người rất yêu thích, nhất là với những người thuộc thế hệ trẻ. Mở màn năm nào hầu như cũng là phần thi kiệu của những làng ở xung quanh. Sự tham gia hào hững khiến cho không khí của mùa lễ hội như được dâng cao lên rất nhiều. Bởi mọi người sẽ xem xét và chấm xem cỗ kiệu của làng nào là đẹp nhất thì năm sau, cỗ kiệu của làng đó sẽ được thay mắn những làng còn lại được rước lên đền Thượng làm lễ. Đó chính là niềm vinh dự vô cùng lớn lao đối với ngôi làng được giải nhất vì theo như tập tục cho rằng, ngôi làng có cỗ kiệu được chọn thì trong năm làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn, được các Ngài phù hộ tốt lành. Qua đó, chúng ta thấy rõ được những đặc điểm trong đời sống tâm linh của những làng xã quanh chân núi Hùng nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói lễ hội, chúng ta sẽ dễ dàng được xem nghi lễ hát Xoan. Đây là nghi lễ vô cùng độc đáo mà chỉ nơi đây mới có bởi chiếu theo lịch sử thì đây là điệu múa hát được bà Lan Xuân- vợ của vua Lý Thần Tông vô cùng yêu thích và có nhiều sự đóng góp giúp cho điệu hát này trở thành điệu hát thờ tại các đền thờ của vua Hùng. Không chỉ có hát Xoan mà ở đền Hạ còn có ca trù. Đây cùng là một loại hình ca hát truyền thống của dân tộc Viết Nam chúng ta. Bên ngoài sân, mọi người cùng nhau tụ tập để chơi một số những trò chơi dân gian như đu quay, đánh cờ, chọi gà, đấu vật,.. Với rất nhiều những trò chơi khác nhau, những người đến thăm hội được thưởng thức bất cứ một loại hình nào mà mình yêu thích. Ví như những bạn trẻ thường chọn chơi đánh đu trên những đu quay làm bằng tre, nứa rất chắc chắn. Buổi tối, những người yêu thích ca hát có thể cùng nhau tham gia những bài hát đối, hát giao duyên, hát chèo,… ngay tại sân của đền Hạ hoặc đền Giếng. Với biết bao những hoạt động bổ ích, hằng năm những lượt khách tới thăm đền Hùng là vô cùng nhiều. Ai cũng muốn được tới nơi thờ phụng tổ tiên của đất nước một lân để thể hiện tấm lòng thành hội Đền Hùng là một phong tục rất đẹp trong đời sống tâm linh của dân tộc người Viết. Chúng mang những giá trị về văn hóa lịch sử vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chính bởi vậy mà đã từ lâu, Phú Thọ được coi là thánh địa của cả nước, là cái nôi của dân tộc. Trải qua một quãng thời gian rất dài với biết bao thăng trầm trong lịch sử nhưng nhà nước vẫn cố gắng tổ chức lễ hội Đền Hùng tưởng nhớ tới những vị vua khai sáng ra nước Việt ta. Những người hành hương tới với nơi đây đều mang trong mình những niềm thành kính, mong muốn gửi lên tấm lòng chân thành của mình tới tổ tiên. Điều đó khiến cho chúng ta càng cảm thấy tự hào về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của dân tộc Việt Nam đây VnDoc đã hướng dẫn các bạn học sinh Bài văn thuyết minh về Đền Hùng. Tài liệu gồm 10 bài thuyết minh mẫu về Đền Hùng sẽ giúp các bạn cũng cố thêm nhiều vốn từ, từ đó hoàn thiện tốt bài văn của mình. Chúc các bạn học tốtMở bài Đánh nhau với cối xay gióTóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-tê của Xéc-van-técSoạn bài Tình thái từCảm nhận về nhân vật Giôn-xi trong Chiếc lá cuối cùng...................................Ngoài 10 Bài văn thuyết minh về Đền Hùng lớp 8 Chọn lọc, các bạn học sinh còn có thể tham khảo các đề thi, học kì 1 lớp 8, học kì 2 lớp 8 các môn Toán, Văn, Soạn bài lớp 8, Soạn Văn Lớp 8 ngắn nhất mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi lớp 8 này giúp các bạn rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn. Chúc các bạn ôn thi tốt Mục lục Lời bài hát Về với đền Hùng Bình luận về bài hát này Video bài hát Về với đền Hùng Ghi chú cho lời bài hát Về với đền Hùng Lời bài hát liên quan Nhạc sĩ/ Sáng tác Nguyễn Anh Trí Năm sáng tác Ngôn ngữ Việt Nam Số lượt nghe 1909 Các ca sĩ thể hiện Nam Khánh, Thích Chân Quang, Quốc Hưng, Phan Đinh Tùng, Minh Trung, Thái Quảng, Phương Thảo Lời bài hát Về với đền Hùng- Nguyễn Anh Trí Ϲhúng con cùng nhau về với Đền Hùng Ϲàng biết rõ hơn mình chung nguồn cội Ϲhung Mẹ chung Ϲha chung ngàу Lễ Hội Ɓắc Trung Ɲam chung một đồng bào Về Đền Hùng con thấm thía biết bao Với bậc sinh thành phải trọn đời hiếu thảo Thơm ngon nghĩa tình có từ hạt gạo Ɲên Vua nhường ngôi cho Hoàng tử Lang Liêu Về Đền Hùng con càng hiểu bao nhiêu Lời Ɓác Hồ phải cùng nhau giữ Ɲước Giang sơn nàу một vẹn toàn Tổ quốc Ɓốn ngàn năm vững mãi Ϲột Đá Thề Đền Hùng là đâу nơi chúng con về Ϲó cả đàn Voi cùng chầu Đất Tổ Ϲó Ɓạch Hạc ngã ba sông sóng vỗ Tam Đảo Ɓa Vì thành lũу giữ Đất thiêng Ϲhúng con về đâу với muôn nỗi niềm riêng Đều chung tấm lòng tri ân Ɲguồn Ϲội Ɲghe đồng vọng hồn Tổ tiên vẫу gọi Ɲguуện sống hết mình Đất Mẹ Việt Ɲam ơi Bình luận Bình luận Tên bạn Nội dung Ghi chú về lời bài hát Về với đền Hùng Lời bài hát Về với đền Hùng - Nguyễn Anh Trí liên tục được cập nhật đầy đủ các thông tin về nhạc sĩ, ca sĩ thể hiện, năm sáng tác, mp3 cũng như video clip youtube tại có thể liên hệ với ban quản trị website qua phần comment hoặc email để bổ sung hoặc chỉnh sửa các thiếu sót về lời bài hát hoặc các version hay ngôn ngữ khác tiếng Việt, tiếng Anh, tiềng Hàn Quốc...Từ khóa tìm kiếmLời bài hát Về với đền Hùng - Nguyễn Anh Trí, Về với đền Hùng - Nguyễn Anh Trí Lyrics, loi bai hat Ve voi den Hung - nguyen anh tri, Ve voi den Hung Lyric, Nguyễn Anh Trí, VevoidenHung Đền Hùng từ lâu đã được biết đến là một điểm nóng về du lịch tâm linh của du lịch Phú Thọ. Đến với di tích Đền Hùng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một quần thể di tích lịch sử nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Nơi đây là nơi các vua Hùng đã dựng ra nhà nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của dân tộc ta và cũng chính tại nơi đây, du khách sẽ được tìm hiểu về các vị vua Hùng, các nàng công chúa Mị Nương, Tiên Dung, về hoàng tử Lang Liêu cùng với sự tích bánh chưng bánh dày. Cùng BDATrip khám phá đền Hùng vùng đất cội nguồn dân tộc quan khu di tích Đền HùngDi tích lịch sử đền Hùng nằm tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, là nơi thờ các vị vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc Việt Nam ta. Từ xa xưa, vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông như hai dãy hào bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Phía đông là các dãy núi cao, trùng trùng điệp điệp. Đây là mảnh đất có nhiều ao hồ, sông ngòi, đồi núi lại có những cánh đồng màu mỡ do phù sa của ba con sông bồi đắp. Được xem là nơi vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư thời xưa, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ trong các cuộc xung đột giữa các bộ thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh hay còn được gọi là núi Cả, núi Hùng hay núi Hy Cương. Trước kia, khu vực này là một cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay, núi Hùng vẫn giữ được nguyên dáng vẻ của một khu rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau bao gồm 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó có một số cây đại thụ lớn như thiên tuế, thông, đa, trò,…Nhìn từ xa, núi Hùng trông như đầu của một con rồng lớn hướng về phương Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Pheo, núi Vặn. Phía sau núi Hùng là những quả đồi lớn san sát nối liền trông như đàn voi chầu về đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc, nơi hợp lưu của ba con sông sông Đà, sông Lô, sông Hồng tạo ra một vùng nước rộng lớn mênh mông. Cảnh thể vô cùng ngoạn mục và hùng vĩ, đầy khí thiêng của nơi sơn thủy hội tụ. Đền HạĐền Hạ được xây dựng từ thế kỉ 17 - 18 với kiến trúc kiểu chữ nhị = gồm Hậu cung Tiền bái. Tương truyền tại nơi đây, mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm người con, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa của “đồng bào” cùng bọc cũng được bắt nguồn từ đây. Lạc Long Quân mang theo 50 người con xuống biển mở mang bờ cõi, Âu cơ mang 49 người con lên rừng trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống mới. Người con trưởng ở lại làm vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Thiên QuangTừ xưa, ngôi chùa có tên gọi “Viễn Sơn Cổ Tự”, về sau đổi thành “Thiên Quang Thiền Tự”. Chùa được xây dựng vào thời nhà Trần, cho đến thế kỷ 15 được xây dựng lại và được đại trùng tu vào thời nhà Nguyễn. Chùa có kiến trúc kiểu chữ công I gồm có 3 tòa tiền đường, Tam bảo và Thương điện. Các tòa đều được làm theo kiểu cột trụ, kèo suốt cài nóc, quá giang gối đầu vào cột kèo. Phía ngoài có hành lang xung quanh. Mái chùa được lợp ngói mũi có đầu đao cong, bờ nóc được đắp hình lưỡi long chầu cửa chùa có cây vạn tuế gần 800 năm tuổi. Chính tại nơi đây vào ngày 19/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội đã ngồi làm việc dưới gốc cây vạn tuế TrungĐền Trung hay còn có tên gọi khác là Hùng Vương Tổ miếu, được xây dựng vào thời Lý - Trần. Đến thế kỷ 15 bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại. Tương truyền rằng đây là nơi vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và bàn việc nước. Cũng chính tại nơi đây, vua Hùng thứ 6 đã truyền ngôi lại cho Lang Liêu, người con hiếu thảo sáng tạo ra món bánh chưng, bánh ThượngĐền Thượng có tên chữ là Kinh thiên lĩnh điện có nghĩa là Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh. Đây là nơi được các vua Hùng tiến hành nghi lễ thờ trời đất, thờ Thần lúa cầu mong cho mùa màng tươi tốt. Trên đỉnh núi Hùng xưa kia có mảnh vỏ chấu khổng lồ và chiếc thuyền nan ba cắng gắn liền với truyền thuyết về hạt lúa thần, phản ánh ước mơ của người xưa về cuộc sống ấm Thượng được xây dựng quy mô vào thế kỷ 15, đến thời nhà Nguyễn, triều đình đã cử quan, cấp tiền để đại trùng tu lại. Vào ngày 18/9/1962, Bác Hồ về thăm đền Hùng đã căn dặn phải trồng cây cối, xây dựng nơi đây thành công viên lịch sử cho con cháu viếng thăm sau Hùng VươngTương truyền rằng, đây là mộ của vua Hùng thứ 6, trước khi chết có dặn dò hãy chôn trên núi Cả để có thể trông nom bờ cõi cho con cháu. Xưa kia, đây là mộ bằng đất, đến thời Tự Đức năm thứ 27 cho xây thành lăng mộ và được trùng tu lại vào thời Khải Định năm thứ đá thềTruyền thuyết kể lại rằng, Thục Phán An Dương Vương sau khi được vua Hùng nhường ngôi đã thề nguyện muôn đời bảo vệ giang sơn xã tắc mà vua Hùng trao lại và đời đời nhớ ơn, hương khói cho họ GiếngĐề Giếng có tên chữ là Ngọc Tỉnh, là nơi mà hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái của vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi đi theo cha kinh lý qua vùng này. Hai nàng là người đã có công lao dạy dân trồng lúa, trị thủy nên được người dân lập đền được xây vào thế kỷ thứ 18, bên trên miệng giếng nên hiện nay giếng ở trong hậu cung không bao giờ cạn nước, bốn mùa nước trong Tổ Mẫu Âu CơĐền được xây dựng trên núi Vặn tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Vặn, núi Trọc. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ là một quần thể kiến trúc bao gồm đền chính thờ Mẫu Âu Cơ, nhà hữu vu, nhà tả vu, trụ biểu, tam quan,… được xây dựng theo phong cách truyền thống pha lẫn tính hiện đại. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ là một công trình văn hóa lớn của thời đại, nhằm mục đích quy tụ văn hóa Đền Hùng, thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu Âu Cơ - người mẹ thiêng liêng của dân tộc Việt thờ Lạc Long QuânĐền quay về hướng Tây Nam, được xây dựng theo lối kiến trúc chữ đinh gồm có Cổng đền, Phương đình, Hữu vu, Tả vu, trụ biểu và đền thờ. Trong đền đặt tượng Quốc Tổ Lạc Long Quân, tượng Lạc Hầu và Lạc Tướng được đúc bằng tàng Hùng VươngBảo tàng được xây dựng vào năm 1986 do Hội kiến trúc sư Việt Nam thiết kế theo truyền thuyết bánh chưng, bánh dày với quan niệm về trời tròn, đất vuông của ông cha khi tàng hiện lưu giữ hơn 700 hiện vật, 102 bức ảnh, 5 bức tranh sơn mài, 4 bức tranh bằng gốm tráng men, 9 bức gò đồng , 5 hộp hình, một nhóm tượng đồng và rất nhiều hiện vật bổ trợ di tích lịch sử đền Hùng là điểm đến khá thú vị cho du khách gần xa. Không chỉ được tìm hiểu về nguồn cội dân tộc mà tới nơi đây, du khách còn được chiêm ngưỡng cảnh tượng núi non hùng vĩ và tận hưởng không khí thoáng đãng, trong lành. Hãy tham khảo các tour du lịch Phú Thọ hấp dẫn của chúng tôi và liên hệ ngay với BDATrip nhé. Với dịch vụ chuyên nghiệp, đội ngũ nhân viên tận tâm, chúng tôi sẽ hỗ trợ bạn đặt xe, vé máy bay thuận tiện và giá tốt nhất, hỗ trợ xin cấp Vietnam visa cho khách nước ngoài và tìm những khách sạn chất lượng tốt nhất. Thuyết Minh Về Đền Hùng ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Với Cách Viết Sinh Động Và Giàu Hình Ảnh. Dàn Ý Thuyết Minh Về Đền HùngBài Thuyết Minh Về Đền Hùng Chi Tiết – Bài 1Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Đền Hùng – Bài 2Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Đền Hùng Đặc Sắc – Bài 3Thuyết Minh Đền Hùng Phú Thọ Ấn Tượng – Bài 4Thuyết Minh Về Đền Hùng Ngắn Nhất – Bài 5Văn Thuyết Minh Về Đền Hùng Đạt Điểm Cao – Bài 6Thuyết Minh Về Đền Hùng Ngắn Gọn – Bài 7Thuyết Minh Về Đền Hùng Phú Thọ Đơn Giản – Bài 8Thuyết Minh Về Đền Hùng Hay Nhất – Bài 9Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đền Hùng Chọn Lọc – Bài 10Bài Văn Thuyết Minh Về Đền Hùng Điểm 10 – Bài 11Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 8 Hay – Bài 12Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 9 Ngắn – Bài 13Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 10 Sinh Động – Bài 14Thuyết Minh Về Đền Hùng Bằng Tiếng Anh – Bài 15 Cùng chia sẻ đến bạn đọc mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Đền Hùng chi tiết giúp các em triển khai bài văn logic và mạch lạc. Mở bài Giới thiệu về di tích lịch sử đền Hùng. Thân bài Lịch sử hình thành Vua Hùng lựa chọn để đóng đô. Đặc điểm Vị trí nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền bắt đầu của Khu di tích là Đại Môn, xây năm 1917 theo kiểu vòm Hạ xây vào thế kỷ 17 – 18, cấu trúc chữ Nhị, được tương truyền là nơi Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm người Thiên Quang nằm kề bên đền Hạ, được xây vào thời Trung tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, tồn tại từ thời Lý – Trần, cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ Thượng nằm trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thờ Thánh Gióng và vua vua Hùng là mộ của Hùng Vương thứ 6. Lăng được thiết kế theo cấu trúc hình vuông với cột liền tường và hướng mặt về phía đông nam. Bên trong lăng có xây dựng mộ vua Giếng nằm ở phía Đông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc. Ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng của khu di tích Thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta từ ngàn đời di sản có giá trị sâu sắc thể hiện tình cảm, sự biết ơn sâu sắc đến các thế hệ đi trước, đặc biệt là đối với vua Hùng, người đã tiên phong khai sinh nên bờ cõi nước Việt. Kết bài Khẳng định lại giá trị của khu di tích đền Hùng. Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em❤️️ Ngắn Hay Bài Thuyết Minh Về Đền Hùng Chi Tiết – Bài 1 Bài Thuyết Minh Về Đền Hùng Chi Tiết giúp ích rất nhiều trong quá trình ôn tập của mình đạt được hiệu quả cao. Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc. Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao nhất. Mỗi năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi, các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu mong yên bình, làm ăn thành công. Bên cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật chèo, kịch nói, hát quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất Tổ. Những người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng,cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các vua Hùng. Xem Thêm Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Lăng Bác ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Đền Hùng – Bài 2 Bài văn Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Đền Hùng được chọn lọc và chia sẻ đến các bạn đọc dưới đây. “Ta về tìm lại ngày xưaTrời xanh rất vắng, nắng trưa rất vàngTa về gom những mơ màngTìm trong trầm tích Văn Lang một thời.” Trích thơ Văn Việt Trì Qua những vần thơ trên đã diễn tả những cảm xúc dạt dào, tha thiết về cội nguồn của dân tộc, về lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, của các vị vua Hùng. Dù ở bất cứ đâu những người con Việt Nam mãi luôn nhớ về những chiến công vang dội, những công lao to lớn đặt xây nền móng đầu tiên từ lúc sơ khai của đất nước Việt Nam. Hằng năm, cứ đến mồng 10 tháng 3 là con dân ở khắp đất nước, kiều bào đều tụ hội về đền Hùng để tưởng niệm, nhớ ơn, thể hiện tấm lòng thành kính trước tổ tiên, thế hệ đi trước, đây cũng chính là nét văn hóa lâu đời từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. “Cây có cội, nước có nguồn”, cội nguồn của dân tộc Việt Nam là hai tiếng đồng bào thân thương, gắn liền với truyền thuyết xa xưa Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng với 50 người con xuống biển, 50 người con lên non thay nhau cai quản. Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên ra đời và phát triển trên nền tảng của nền văn hóa sơn vi rực rỡ. Khu di tích Đền Hùng nằm trên vùng đất Đế Đô của nhà nước Văn Lang đã mang trong mình từ chiều dài từ hàng ngàn năm lịch sử. Nằm trong khu vực trung tâm chính của nhà nước Văn Lang, được tọa lạc vị thế độc đáo ngay giữa hai dòng sông biếc bao bọc lấy cố đô. Đền Hùng được dựng núi Nghĩa Linh giữa vùng đất Phong Châu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trải dài từ chân núi đến đỉnh núi Nghĩa Linh với chiều cao 175 mét. Núi Nghĩa Linh hay còn được gọi là núi Cả hay núi Hùng là ngọn núi cao nhất ở đây. Núi Hùng trông từ xa như một cái đầu rồng lớn đầy uy nghi, hùng vĩ, uốn lượn trong mây trời, ở phía xa xa là dãy núi san sát nối liền nhau xa tít tận chân trời. Tương truyền vua Hùng phải đi khảo sát nhiều nơi, mới có thể tìm ra vùng đất ngút ngàn linh khí, hòa hợp giữa đất trời, thiên nhiên, vạn vật này để định đô, có lẽ vì thế mà dù trải qua hàng nghìn năm nhưng những cảnh sắc, cây cỏ nơi đây vẫn luôn mang sự huyền ảo, rực rỡ, cuốn hút đến vậy. Đền thấp nhất ở chân núi chỉ cần leo thêm 168 bậc nữa là sẽ đến đền Trung, đây là ngôi đền được biết đến xây dựng vào khoảng thế kỷ 14 và được trùng tu vào những năm 1988. Nhắc đến đền Thượng, người dân xưa thường tương truyền đây là nơi thường diễn ra các buổi tế lễ, cúng kiến cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đất nước thịnh vượng, thái bình. Mộ của vị vua Hùng thứ 6, tương truyền ông là người lãnh đạo nhân dân Văn Lang chống lại sự xâm lược của nhà Ân, được đặt phía bên trái của đền Thượng, mặt lăng qua theo hướng đông nam, vốn là một mộ đất. “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”, quả thật vậy hoạt động văn hóa, lễ hội như mang tính truyền thống gắn kết của cả một dân tộc, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ chân núi sẽ là nơi thấp nhất gọi là đền Hạ đây là nơi được người xưa kể rằng mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc 100 trứng sinh ra con người Văn Lang. Tiếp lên trên sẽ là đền Trung là nơi bàn chính sự, hội họp, bàn bạc việc quan trọng của vua và các quần thần. Và lên cao nhất ở đỉnh núi đó là đền Thượng, đây cũng chính là nơi thờ của vị vua Hùng thứ 6. Hằng năm, con dân từ khắp đất nước đều tụ hội về đền Hùng trang trọng cung kính biết ơn. Ngoài nghi thức trang nghiêm này còn có các hoạt động văn hóa đa dạng như lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đây là hình thức lễ hội vô cùng trang nghiệm, kính lễ với các bậc đi trước, những người đã khuất, mọi người sẽ nâng kiệu từ ở dưới chân núi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Đoàn người nâng kiệu ăn mặc gọn gàng, trang trọng và cẩn thận nhất, mỗi người cầm một loại vũ khí thời xưa để mô phỏng tái hiện lại công lao to lớn của ông cha ta. Tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng, đoàn rước kiệu đi đến đầu tiên là “điện kính thiên”, tại đây cả đoàn sẽ tạm dừng để thực hiện nghi lễ dân hương. Sau nghi thức dâng hương mọi người sẽ tiếp tục di chuyển lên đến ngôi đền cao nhất đền Thượng, vị đại biểu cho nhân dân cả nước sẽ đứng lên phát biểu sự trân trọng, biết ơn đối với các vị vua Hùng, những hy vọng mong ước an lành thịnh vượng của đất nước. Bên cạnh lễ hội truyền thống còn có các sinh hoạt văn hóa cổ xưa như chọi gà, đấu vật, đánh cờ người. Đặc biệt là nghệ thuật hát xoan, chèo, quan họ đặc trưng của dân tộc ta, làn điệu mượt mà như cuốn hút con người về với đất tổ thân thương, hòa mình vào truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc từ ngàn đời. Với đa dạng các hoạt động cổ xưa, truyền thống, mỗi năm cứ đến mùng 10 tháng 3 là lượt khách đến thăm đền Hùng lại vô cùng đông đúc, ai cũng muốn được bày tỏ sự biết ơn của mình, trân trọng sâu sắc. Lễ hội đền Hùng là một phong tục tập quán có từ ngàn đời, nối gót thế hệ đi trước luôn gìn giữ và phát huy những giá trị đẹp của dân tộc. Ai ai đến đây đều mang trong lòng sự thành kính đối với các vị vua Hùng, làm cho chúng ta càng thêm tự hào về nguồn cội con rồng cháu tiên, về truyền thuyết bọc trăm trứng từ xa xưa của cả một dân tộc kiên cường, anh hùng. Khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009 được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt quốc gia. Năm 2011, nghệ thuật hát xoan, khúc hát vang dội dấu ấn lịch sử Hùng Vương đã trân trọng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được gìn giữ và phát triển. Giỗ tổ Hùng Vương, là lễ hội lớn của dân tộc ta, về với đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc thân thương, về với những chiến công hiển hách, công lao dựng nước giữ nước của ông cha ta. Đền Hùng đã và đang ngày càng khẳng định nét văn hóa, di sản to lớn đáng tự hào của đồng bào dân tộc Việt Nam qua bao đời thế hệ. Gợi Ý Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Bến Nhà Rồng ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Đền Hùng Đặc Sắc – Bài 3 Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Đền Hùng Đặc Sắc được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học. Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Phong Châu là đế đô của nước Văn Lang, từ năm trước. Đấy là đất Tổ của dân tộc Việt Nam. Tương truyền, xa xưa, các vua Hùng lựa chọn nhiều nơi, cuối cùng mới tìm được thánh địa này để đóng đô. Nơi này ở phía trước có sông tụ hội, hai bên có núi chầu hầu. Bãi sông tiện lợi cho sinh hoạt nhân dân. Đất đai màu mỡ thích hợp việc cày cấy, trồng trọt. Đất gò đồi cao thuận lợi việc lập ấp mở làng. Ngày nay, những dấu tích phát hiện được trong các đợt khai quật khảo cổ ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Làng Cả… cho thấy quanh vùng đất Phong Châu đều có tính chất tiêu biểu. Điều này chứng minh rằng đây là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ thời Hùng Vương. Cuộc sống vật chất và tinh thần của con người ở đây đã đạt tới đỉnh cao văn minh lúc bấy giờ. Theo sử cũ, sau khi định đô ở Phong Châu, các vua Hùng đã chọn núi Nghĩa Lĩnh làm nơi tế trời đất, chủ thần và tiên tổ. Với những cái tên được gọi qua nhiều thời điểm khác nhau như là Hy Chương, Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh, núi Hùng, núi Nghĩa Lĩnh cao 175m, nằm trên địa phận thôn Cổ Tích. Cây cối ở đây um tùm, xung quanh là gò đồi nhấp nhô trùng điệp. Tương truyền có tất cả 99 ngọn đồi vốn là 99 con voi có nghĩa phủ phục chầu núi Tổ, riêng có một con bất nghĩa, quay ngược lại bị chém đầu. Vì vậy, vùng này có một quả đồi có vết xẻ thành khe. Cổng đền Hùng nằm ở chân núi phía Tây, bên những gốc thông đại thụ cao vút. Cổng xây theo kiểu tam quan, hai tầng, góc mái uốn cong. Bờ nóc có “lưỡng long chầu nhật”. Cửa chính giữa cao rộng. Cách hai tường ngắn là hai cột trụ, đỉnh có đắp đèn lồng, con nghê. Phía trên cửa chính có bốn đại tự “Cao Sơn Cảnh Hàng” có nghĩa là “Núi Cao Đường Lớn”. Du khách phải trèo lên 255 bậc đá để đến Đền Hạ. Theo truyền thuyết, ở đây bà Âu Cơ đẻ bọc trăm trứng, nở thành trăm người con năm mươi theo cha là Lạc Long quân xuôi về miền biển, năm mười người theo mẹ lên núi, người con cả được tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Văn Lang. Trong khu vực đền Hạ có chùa Thiên Quang. Trước cửa chùa là cây thiên tuế sống được 700 năm. Tại nơi này, vào ngày 19 tháng 8 năm 1954, Hồ chủ tịch đã nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ sư đoàn 308 có nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Hà Nội. Bác dặn “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Từ Đền Hạ, qua nhà đặt bia xinh xắn, bên gốc đại thụ, đi xuống chân núi ở mặt Đông Nam khoảng vài chục bậc đá, du khách đến được Đền Giếng. Đây là nơi thờ hai vị công chúa là Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái vua Hùng thứ 18. Trong đền có Giếng Ngọc. Tương truyền, hồi chưa hạ giá, hai công chúa vẫn còn ra đây soi bóng chải tóc. Bây giờ du khách hãy trở lại Đền Hạ, leo 168 bậc lên Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng thường đến họp bàn việc nước với quần thần. Tiếp tục lên 102 bậc đá nữa, du khách đến được Đền Thượng, nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời Đất, Thần Núi và Thần Lúa. Đền có bức hoành phi lớn đề bốn đại tự “Nam Quốc Sơn Hà”. Trước đền Thượng có một cột đá lớn, dựng trên bệ cao, khói hương ám đen kịt, được gọi là đá thề. Tương truyền đây là nơi vua Thục Phán đã nguyện xin đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ nghiệp họ Hùng truyền lại. Phía bên đền Thượng, thấp hơn vài chục bậc lăng là vua Hùng, tượng trưng cho mộ tổ xây dựng vào đầu thế kỷ XX, kiến trúc giản dị đơn sơ. Toàn bộ khu di tích hiện nay bao gồm bốn đền một chùa một lăng, đều được trùng tu hoặc xây thêm cách nay vào khoảng trăm năm. Theo lời kể của các cụ già ở địa phương, đền Trung có sớm nhất, do thôn Trẹo tên nôm của làng Triệu Phú, có đông người họ Trẹo, nay đổi thành Triệu xây dựng từ thời xa xưa để thờ các vua Hùng. Sau làng Trẹo đông dần, chia thành ba làng là Triệu Phú, Cổ Tích, Vi Cương. Hai làng mới cũng lập đền thờ trên núi. Làng Cổ Tích dựng đền Thượng. Làng Vi Cương dựng đền Hạ. Triệu Phú là làng gốc vẫn trông nom thờ cúng đền Trung như cũ. Ba bài vị thờ các thần núi có tên nôm na là núi Cả, núi Văn, núi Trọc và tên chữ Hán là “Đột Ngột Cao Sơn”, “Ất Sơn” núi gần, “Viễn Sơn” núi xa đặt trong các đền. Vỏ trấu lớn bằng đá, về sau làm lại bằng gỗ thờ ở đền Thượng. Tảng đá “cối xay” đường kính trên 2m ở trên núi Trọc được chú ý bảo tồn. Những mảnh đá lớn kê hai bên bệ thờ ở đền Hạ là những dấu tích gợi nhớ những nghi thức thờ cùng nguyên thủy của cư dân thời Hùng Vương. Quanh đền Hùng, một loạt tên đất, tên xóm làng còn vang vọng một thời Xã Thậm Thình là nơi xã giã gạo cho vua, Kẻ Sủ, nơi làm việc cho các quan, Kẻ Đợi là chỗ rèn luyện quân sĩ, Kẻ Gát, nơi vua dựng lầu kén rể… Khu vực Đền Hùng được bảo vệ, tôn tạo khá chu đáo. Đường đi được làm thêm vào thời gian gần đây; bậc đá lên đền được sửa lại; cây được trồng thêm. Ngoài ra, còn xây thêm khu công quán, đào hồ chứa nước Lạc Long Quân… Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn xuống, du khách thấy phía xa xa là Ngã ba Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông Hồng. Xưa kia, mênh mông như biển cả. Phía bên trái là dãy Tam Đảo hùng vĩ. Phía bên phải là ngọn Ba Vì mờ mờ xanh ẩn hiện… Đồng ruộng, đồi cọ, vườn chè, làng xóm trù phú, cảnh đẹp như tranh, vùng trung du trải rộng ra trước mắt. Đây đó rải rác những đầm hồ lớn lấp loáng như gương dưới ánh xuân. Chia Sẻ Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Chùa Một Cột ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Thuyết Minh Đền Hùng Phú Thọ Ấn Tượng – Bài 4 Thuyết Minh Đền Hùng Phú Thọ Ấn Tượng và súc tích thể hiện qua từng câu văn, hình ảnh chân thực và sinh động. Trên đất nước Việt Nam yêu dấu có rất nhiều cảnh đẹp. Một trong số đó là đền Hùng – nơi thờ các Vua Hùng thời xưa đã có công dựng nước. Đền Hùng là một thắng cảnh đẹp, một di tích lịch sử có ý nghĩa nhất đối với người Việt Nam vì đó là nơi thờ cúng, tưởng niệm của vua Hùng, tổ tiên chung của cả dân tộc. Đền Hùng nằm ở phía tây bắc Hà Nội, cách Thủ đô chưa đầy 90km. Nơi đây được xây dựng trên núi Hùng hay còn được gọi là núi Cả, núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiêu Sơn…. Núi có độ cao 175m so với mặt nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Văn, núi Trọc, núi Pheo. Núi Vặn cao 170m, xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145m. Theo truyền thuyết, ba đỉnh núi này là ba đỉnh “Tam sơn cấm địa” được dân gian thờ từ rất lâu đời. Phong cảnh nơi đây mới hùng vĩ làm sao! Ở đó núi non trùng điệp, rừng cây bạt ngàn xanh tốt. Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nhìn thấy dòng sông Lô hiền hòa, trong vắt, những xóm làng ẩn hiện trong vườn cây trái như một bức tranh đầy màu sắc. Từ núi Nghĩa Lĩnh có thể “quan sát được cả một vùng rất rộng của trung tâm Bắc Bộ với ngã ba Hạ, nơi sông Lô đổ nước vào sông Hồng, với các dãy núi Tam Đảo, Ba Vì và các dãy đồi lượn sóng xen kẽ giữa những cánh đồng tốt tươi, những vùng quê trù phú của vùng trung du. Toàn bộ khu di tích gồm bốn đền, một chùa và một lăng hài hòa trong phong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất đẹp mắt. Cao nhất là Đền Thượng, thấp nhất là Đền Giếng. Các Đền được xây dựng theo một kiến trúc cổ kính. Sau khi qua cổng chính của khu di tích, qua 225 bậc đá, là lên đến đền Hạ. Ở khu vực Đền Hạ có chùa Thiên Quang và cây Thiên Tuế 700 tuổi; gần đó có đền Ngọc và giếng Ngọc. Từ Đền Hạ theo 168 bậc đá nữa là Đền Trung và lên tiếp 102 bận nữa thì lên Đền Thượng và có lăng vua Hùng, tượng trưng cho mộ Tổ. Cổng đền được xây theo kiểu vòm cuốn. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ; giữa tầng một có đề bức đại tự “Cao sơn cảnh – hành” lên núi cao nhìn xa rộng. Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần. Qua cổng chính là Đền Hạ. Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây. Ngay chân Đền Hạ là nhà bia, trên đỉnh có đắp hình, nậm rượu. Nơi đây đặt bia đá ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1945 “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Gần Đền Hạ có ngôi chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ ngồi nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ. Chùa có một gác chuông được xây dựng vào thế kỉ XVII. Tiếp đến là Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Đây cũng là nơi vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày. Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để cử hành những buổi lễ thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Tiếp đến là Lăng Hùng Vương, tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng hình vuông, tầng dưới bốn góc đắp bốn con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc”. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, hai bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong lãng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái mui luyện. Từ Đền Thượng, đi tham quan một đoạn nữa là đến Đền Giếng tên chữ là Ngọc Tỉnh, tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18 thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời, cổng Đền Giếng có kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên núi Ốc Sơn núi Vặn. Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu. Ngay dưới chân núi là Bảo tàng Hùng Vương. Trong Bảo tàng có nhiều hiện vật, tranh ảnh, tượng lớn khắc hoạ chủ đề “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”. Vào những ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cờ, hoa, biểu ngữ được trang hoàng khắp mọi nơi. Cờ bay đỏ những cành cây, đỏ những mặt hồ. Trong những ngày lễ, Đền Hùng càng đông khách thập phương đến tham quan và thắp hương, tưởng nhớ ghi dấu công ơn của các vua Hùng. Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử — văn hóa đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam. Gợi Ý Bài 🌹 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 ❤️️15 Bài Hay Nhất Thuyết Minh Về Đền Hùng Ngắn Nhất – Bài 5 Thuyết Minh Về Đền Hùng Ngắn Nhất với cách diễn đạt câu văn logic và sinh động. Trong tiềm thức của mỗi người Việt Nam, về với Đền Hùng là cuộc hành hương trở về nguồn cội, tìm lại những dấu ấn lịch sử hào hùng thời Vua Hùng dựng nước “Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng baKhắp miền truyền mãi câu caNước non vẫn nước non nhà ngàn năm” Cụm di tích Đền Hùng trên một ngọn núi cao hùng vĩ. Bàn thờ Tổ được đặt trên ngọn núi Nùng Nghĩa Lĩnh thuộc thôn cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Núi Nùng cao 175m nổi lên án ngự vùng đồi Phong Châu Bạch Hạc. Đền Hùng là tên chung chỉ bốn ngôi đền và một ngôi lăng trên Núi Nùng. Từ cổng chính đi lên là Đền Hạ, theo truyền thuyết đây là nơi bà Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con tạo thành sức mạnh Việt Nam. Lên nữa là Đền Trung nơi các vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và trên đỉnh núi là Đền Thượng với bốn chữ vàng “Nam Việt Triệu Tổ” Tổ muôn đời nước Việt Nam. Đây là nơi Vua Hùng thờ Thánh Gióng và làm lễ tế trời đất cầu mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt, muôn dân ấm no. Cạnh Đền Thượng là ngôi Lăng nhỏ thường gọi là mộ Tổ mang ý nghĩa tượng trưng. Từ Lăng đi xuống về hướng Đông, dưới chân núi là Đền Gióng nơi xưa hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con Vua Hùng thứ 18 soi gương nước trang điểm, vì thế giếng còn có tên là Giếng Ngọc. Giếng ấy nay ở trong lòng đền. Đứng trước Đền Thượng đỉnh Hùng Sơn nhìn ra tám phương bốn hướng, trải ra trước mắt một vùng trung du tươi đẹp và bạt ngàn đồi cây xanh tốt, lấp lánh ánh nước ngã ba sông. Những ngôi nhà mới và những nhà máy mọc lên khiến cho cảnh vật thêm sinh động. Con người cảm thấy thực sự nhỏ bé trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Sự đổi thay của đất và người Phú Thọ đã tô điểm thêm vẻ đẹp cho khu di tích Đền Hùng lịch sử. Sừng sững phía Đông là dãy Tam Đảo chạy dài như bức trường thành. Phía Tây chót vót ngọn Tản Viên trấn ngự. Sông Đà, sông Lô, sông Thao hợp nước chầu về Đền Hùng càng làm tăng vẻ hùng vĩ cho khu di tích “Xem địa thê trùng trùng long hổ Tả đảo Sơn mà hữu Tản Viên Lô, Đà hai nước hai bên Giữa sông Thao thủy dòng trên Nhị Hà” Cố đô Văn Lang xưa, Nghĩa Lĩnh – Việt Trì là cái nôi của huyền thoại. Sông núi cỏ cây mang nặng hồn đất nước, đem đến cho khách thập phương những câu chuyện nửa thực nửa hư mà rất đẹp. Làng Lúa xưa là nơi Vua Hùng dạy dân trồng lúa. Các xã dọc sông Lô là nơi Vua Hùng đi săn cùng các Lang và các Mỵ Nương. Làng Hương Trầm, xã Lâu Thượng là nơi hoàng tử Lang Liêu làm ra bánh chưng, bánh dày dâng lễ chúc thọ Vua Hùng. Ngã ba sông là nơi Vua Hùng thứ 18 lập lầu kén rể chọn chồng cho công chúa, nơi diễn ra cuộc so tài giữa thần Núi và thần Nước để giành người đẹp… “Tháng ba nô nức hội đền Là ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay”. Về hội Đền Hùng là tìm về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, tìm về tuổi ấu thơ trong chiếc nôi với lời ru sông núi của mẹ Âu Cơ; là nhớ về tổ tiên một thời lập quốc với dấu tích của một thời đại Vua Hùng, về với Đền Hùng là về với nguồn cội, về với bản sắc văn hóa của người Việt Nam, cùng cầu chúc mọi điều tốt đẹp đến với tất cả mọi người. Giới Thiệu Bài 🌹 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 10 ❤️️15 Mẫu Hay Văn Thuyết Minh Về Đền Hùng Đạt Điểm Cao – Bài 6 Văn Thuyết Minh Về Đền Hùng Đạt Điểm Cao giúp các em có thêm nhiều tư liệu để ôn tập chuẩn bị cho kì thi tốt nhất. Một trong những di tích lịch sử có giá trị của dân tộc, đó là Đền Hùng. Nơi đây đã gợi nhắc con cháu đời sau nhớ về công ơn dựng nước của các vua Hùng. Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Xa xưa, vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Đền Hùng nằm trên núi Hùng trông xa giống như đầu của một con rồng lớn hướng về Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo. Phía sau núi Hùng có những quả đồi lớn san sát nối liền dài tới 10km giống như đàn voi chầu về Đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc với sự hợp lưu của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc sông Hồng, sông Lô và sông Đà tạo ra một vùng nước lớn mênh mông. Từ đó có những quả đồi thấp lô nhô giống như một đàn rùa nước bò lên chầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy Tam Đảo trùng điệp núi mẹ, xa về phía nam là dãy Ba Vì cao ngất núi cha tụ lại. Quần thể khu di tích lịch sử đền Hùng gồm đền Hạ, chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng, lăng Vua Hùng, đền Giếng, đền Tổ Mẫu u Cơ, đền Quốc Tổ Lạc Long Quân và cùng với đó là các công trình phụ trợ nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh của đồng bào cả nước về Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm. Đầu tiên là đền Hạ được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị bao gồm Tiền bái và Hậu cung. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi. Tương truyền rằng đây là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng. Sau đó bọc trăm trứng nở thành trăm người con . Năm mươi người con theo Lạc Long Quân xuống biển, năm mươi người con theo Âu Cơ lên rừng. Người con trai trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang. Truyền thuyết này đã lý giải nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” cùng một bọc được bắt nguồn từ đây. Tiếp đến là chùa Thiên Quang, chùa xưa có tên gọi là “Viễn Sơn Cổ Tự” sau đổi thành “Thiên Quang Thiền Tự”. Ngôi chùa được xây dựng vào thời Trần đến thế kỷ XV xây dựng lại, thời Nguyễn chùa được đại trùng tu. Đền Trung hay còn có tên gọi khác là Hùng Vương Tổ miếu được xây dựng vào thời Lý – Trần. Đến thế kỷ XV, bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại, kiến trúc hiện nay kiểu chữ nhất gồm ba gian, kiến trúc đơn sơ không có cột, kèo cầu quá giáng cột trốn gối vào tường, mái lợp ngói mũi. Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh dày. Tiếp đến là đền Thượng có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện, đến thế kỷ XV đền được xây dựng quy mô, vào thời Nguyễn triều đình cấp tiền, cử quan về giám sát việc đại trùng tu. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng bốn cấp Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Kế tiếp là đền Giếng có tên chữ là Ngọc Tỉnh. Tương truyền là nơi hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái Vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai nàng là người có công dạy dân trồng lúa, trị thuỷ nên nhân dân lập đền thờ. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18, đền được xây dựng lên trên giếng nên hiện nay giếng ở bên trong hậu cung của đền bốn mùa nước trong mát, không bao giờ cạn. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn. Đền được xây dựng nhằm thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu Âu Cơ người mẹ thiêng liêng huyền thoại của dân tộc Việt Nam. Cuối cùng là đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được xây dựng dưới chân núi Sim vào năm 2006. Trong đền đặt tượng Quốc Tổ Lạc Long Quân, tượng Lạc Hầu, Lạc Tướng được đúc bằng đồng. Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân tạo thành một quần thể kiến trúc cảnh quan, góp phần bảo tồn, tái tạo hình ảnh lịch sử, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong việc thờ tự thuỷ tổ dân tộc. Nhằm giáo dục các giá trị truyền thống dân tộc. Có thể thấy, khu di tích lịch sử Đền Hùng không chỉ để lại những giá trị về văn hóa, mà còn về cả kiến trúc. Nơi đây cũng gợi nhắc con người hướng tới truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý giá của dân tộc Việt Nam. Đọc Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ❤️️17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Thuyết Minh Về Đền Hùng Ngắn Gọn – Bài 7 Thuyết Minh Về Đền Hùng Ngắn Gọn là đề bài rất thường hay gặp trong các đề kiểm tra văn, để bài văn của bạn thêm hay và đạt điểm cao thì tham khảo mẫu bên dưới nhé. Khu di tích lịch sử đền Hùng dựng trên núi Nghĩa Lĩnh – nay thuộc xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, cách Hà Nội 94km về phía Bắc. Nơi đây, xưa là Quốc đô của Nhà nước Văn Lang, dưới quyền trị vì của 18 đời vua Hùng, đóng đô ở Phong Châu. Khu di tích đền Hùng gồm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, lăng vua Hùng thứ 6, đền Giống ở phía Đông Nam dưới chân núi Nghĩa Lĩnh vì trong đền có Giếng Ngọc, nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa là hai con gái của vua Hùng thứ 18 thường soi giếng để chải tóc, vấn khăn nên được gọi là đền Giếng. Từ đền Hạ, qua nhà bia bên gốc đại già, đi xuống chân núi ở mặt đông nam thì đến đền Giếng. Từ đền Hạ, tới đền Trung, tương truyền là nơi các vua Hùng bàn việc nước với quần thần. Từ đền Trung lên tới đền Thượng là nơi vua Hùng làm lễ trời, đất, núi, sông. Trước đền Thượng cổ một cột đá dựng lên bệ cao, được gọi là “đá thề”. Tương truyền đây là nơi An Dương Vương Thục Phán đã nguyện đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ nghiệp họ Hùng để lại. Phía bên đền Thượng là Lăng vua Hùng, tượng trưng cho Mộ Tổ. Tại đền Hạ, Hồ Chủ tịch đã nói chuyện với Bộ đội Sư đoàn 308 trước khi về tiếp quản. Thủ đô 10 – 1954, với câu nói nổi tiếng “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Trong khu di tích còn có nhà Bảo tàng Hùng Vương. Hội đền Hùng được mở vào ngày mồng mười tháng ba âm lịch. Sang thế kỷ 20, năm 1917 triều vua Khải Định, Bộ Lễ chính thức gửi công văn ghi ngày 25 tháng 7 phái quan hàng tỉnh của tỉnh Phú Thọ lấy ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch thì cử hành “quốc tế” hàng năm, tức là sức cho các quan phải mặc phẩm phục lên đền Hùng thay mặt triều đình Huế cúng tế. Khu di tích đền Hùng gồm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, lăng vua Hùng thứ 6, đền Giống ở phía Đông Nam dưới chân núi Nghĩa Lĩnh vì trong đền có Giếng Ngọc, nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa là hai con gái của vua Hùng thứ 18 thường soi giếng để chải tóc, vấn khăn nên được gọi là đền Giếng. Chia Sẻ Bài 🌹 Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám ❤️️15 Bài Hay Nhất Thuyết Minh Về Đền Hùng Phú Thọ Đơn Giản – Bài 8 Thuyết Minh Về Đền Hùng Phú Thọ Đơn Giản để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc dưới đây, cùng đón đọc ngay nhé! Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng – quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê thế kỷ 15 được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại. Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn, thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này. Đền Hạ Tương truyền là nơi Âu Cơ sinh hạ bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm người con. Nhà bia Nhà bia nằm ngay cạnh đền Hạ có kiến trúc hình lục giác với sáu mái. Trong đặt tấm bia đá khắc dòng chữ quốc ngữ “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh trong chuyến thăm Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1954. Chùa Thiên Quang còn gọi là Thiên quang thiền tự, tọa lạc gần đền Hạ. Đền Trung Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Đền Thượng Đền được đặt trên đỉnh núi, nơi ngày xưa theo truyền thuyết các Vua Hùng thường lên tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự “Nam Việt triệu tổ” tổ tiên của người Việt phương Nam. Cột đá thề Bên phía tay trái đền Thượng có một cột đá gọi là cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Hùng. Lăng Hùng Vương Hùng Vương lăng tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ sáu. Lăng mộ nằm ở phía đông đền Thượng, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa đây là một mộ đất, niên hiệu Tự Đức năm thứ 27 1870 đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 năm 1922 trùng tu lại. Đền Giếng Tương truyền là nơi công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ mười tám thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Đền được xây dựng vào thế kỷ 18. Đền Mẫu Âu Cơ Là một ngôi đền mới, được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12 năm 2004, được xây dựng trên núi Ốc Sơn núi Vặn. Đền thờ Lạc Long Quân Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương Lộc Tục và con gái Động Đình Quân tên là Thần Long. Lạc Long Quân được xem là vị vua nước Xích Quỷ, trước nhà nước Âu Lạc. Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là thủy tổ của dân tộc Việt Nam, gắn liền với truyền thuyết “bọc trăm trứng”. Con trai cả của ông là người đã lập ra nước Văn Lang, thống nhất 15 bộ lạc, lấy hiệu là Hùng vương đời thứ nhất. Hiện nay đền thờ Lạc Long Quân nằm tại núi Sim của khu di tích lịch sử Đền Hùng, cách núi Nghĩa Lĩnh hay còn gọi là núi Hùng khoảng 1 km về phía Đông Nam. Tham Khảo Bài 🌹 Thuyết Minh Về Văn Miếu Trấn Biên ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất Thuyết Minh Về Đền Hùng Hay Nhất – Bài 9 Thuyết Minh Về Đền Hùng Hay Nhất giúp các em có thể trau dồi thêm nhiều ý văn hay và sáng tạo. Đền Hùng là một quần thể kiến trúc có giá trị văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng vô cùng quan trọng của người Việt, thể hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đối với vua Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước từ thuở sơ khai của dân tộc. Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc vùng đất Phong Châu, là đế đô của nước Văn Lang từ năm trước và nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là vùng đất bán sơn địa, chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có cảnh quan đa dạng, vừa có rừng núi, đồi gò, vừa có đồng ruộng, sông ngòi, ao hồ phong phú. Đền Hùng được xây dựng trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh, đây được biết đến như là ngọn núi cao nhất vùng với cảnh quan trù phú, sinh vật tươi tốt tràn đầy sinh khí. Hơn nữa ngọn núi này cũng là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ trời đất của bậc đế quân cùng quần thần với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống nhân dân được ấm no. Ngọn núi mang trên mình dáng vẻ hùng vĩ và đồ sộ như thân hình của một con rồng lớn, đầu rồng ngoảnh về nam, thân rồng uốn lượn tạo thành các dãy núi nối tiếp nhau xa tít. Và nằm san sát phía sau con rồng thiêng liên quyền lực ấy lại là hình ảnh của những đàn voi, lũ bầy tôi trung thành đang thi nhau quay mình hướng về đất tổ. Nhưng cái hùng vĩ ấy chưa dừng lại ở đó, tiếp đến ngã ba Bạch Hạc là sự kết hợp sông nước hùng vĩ. Đây là điểm hội tụ của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc, sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Sông nước cuồn cuộn, sóng xô đá cuồn cuộn cuốn nhau chầu về chân núi Nghĩa Lĩnh. Và nếu bạn đứng từ trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thì có thể bao quát hết cảnh vật, thưởng thức hết vẻ đẹp và khí chất nơi quê cha đất tổ oai hùng bất diệt. Đền Hùng là quần thể di tích linh thiêng thấm đượm nhiều giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Khu di tích gồm đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng và lăng vua Hùng. Điểm bắt đầu của khu di tích đền Hùng đó chính là Đại Môn cổng đền. Đây là công trình kiến trúc được xây dựng vào năm 1917 theo kiểu vòm uốn với chiều cao 8,5 mét, có hai tầng mái và được lợp giả ngói ống. Bên trên bốn góc tầng mái được trang trí hình rồng và hai con nghê đắp nổi. Nếu bên trên cổng là hình ảnh loài rồng đầy thiêng liêng và sức mạnh thì bên dưới cổng, trên tường lại được đắp nổi phù điêu hai võ sĩ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Một người lẫm liệt tay cầm giáo, một người cầm rìu chiến. Cả hai đều khoác lên mình bộ giáp kiêu sa ẩn chứa vô vàn sức mạnh. Chưa hết choáng ngợp với cảnh sông nước Nghĩa Lĩnh, vậy mà đến cổng đền ta lại được một phen mãn nhãn đến thần hồn điên đảo bởi điểm xuất phát đầu tiên của Đền Hùng. Địa điểm tiếp theo để tiếp tục cuộc hành trình kỳ thú này là đền Hạ và Thiên Quang Tự. Để đến đây du khách sẽ phải trải qua một hành trình gian nan gồm 225 bậc thang bằng gạch. Đền Hạ đã tồn tại từ thế kỉ 17 – 18 với cấu trúc đơn sơ hình chữ Nhị có hai gian. Gian thứ nhất có tên gọi là Tiền bái, gian thứ hai là Hậu cung. Trước của đền Hạ là cây thiên tuế, đây cũng là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già dân tộc đã cất lên lời dặn dò bất hủ về sự nghiệp bảo vệ dân tộc “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Tương truyền, xưa kia Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ sinh được bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Năm mươi người con theo cha xuống biển, năm mươi người con theo mẹ lên núi khai sơn phá thạch. Trong năm mươi người con theo mẹ thì người con trưởng lên nối ngôi, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời trong hơn năm từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên. Nằm kề bên đền Hạ là Chùa Thiên Quang, được xây vào thời Trần. Phía trước chùa có cây vạn tuế gần tám trăm năm tuổi, xung quanh chùa có hành lang bao bọc, mái lợp ngói mũi, đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Trước sân chùa là hai tháp sư hình trụ bốn tầng và một gác chuông có tuổi đời vài trăm năm. Trong chùa có trên ba mươi pho tượng Tam Thế, A Di Đà, Quan âm Nam Hải, Quan âm Tống Từ, Đức Thánh Hiền, Hộ Pháp,… được bài trí trang nghiêm. Kiến trúc hiện nay của chùa theo kiểu chữ Công, gồm Tiền đường năm gian, Tam bảo ba gian, và Thượng điện ba gian. Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc nữa là có thể đến đền Trung, đây là nơi vua quan ngự bàn việc dân việc nước và thưởng thức vẻ đẹp đất trời. Đền Hạ có tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, đây là ngôi đền cổ tồn tại từ thời Lý – Trần với cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết và không phụ với ý trời, công sức của chàng đã được đền đáp bằng việc truyền ngôi của vua cha. Sau một hành trình gian nan cuối cùng du khách cũng đặt chân lên đỉnh Nghĩa Lĩnh, và tại đây có đền Thượng với tên gọi là “Kính Thiên lĩnh điện”. Đây là nơi thờ Thánh Gióng và vua Hùng. Đền Thượng tọa lạc ở trung tâm trời đất và cũng là trung tâm của khu di tích đền Hùng. Ngôi đền có sân rộng và được tôn tạo lại với kiến trúc cổ để du khách tìm về hành lễ nhưng không được đặt chân vào bên trong các gian thờ. Người ta vẫn thường truyền nhau rằng ngôi đền được xây dựng sau khi Thánh Gióng lập nên đại công, đánh đuổi giặc n khỏi quê cha đất tổ. Và sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc, rồi bay lên trời thì vua Hùng đã đem ngài hóa ở ngôi đền bên cạnh, đó chính là Lăng vua Hùng. Lăng ở phía Đông đền Thượng, đây là mộ Hùng Vương thứ sáu với cấu trúc hình vuông có cột liền tường. Trong lăng là khu mộ vua Hùng với kích thước dài rộng cao 1m. Điểm đến tiếp theo và cũng là điểm cuối của chuỗi di tích đó chính là đền Giếng, chặng cuối này nằm ở ông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ XVIII, theo kiểu kiến trúc chữ Công gồm gian Tiền bái, ống muống, và Hậu cung. Đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc. Bên trong đền có giếng Ngọc nước trong veo quanh năm. Một trong những địa điểm đáng để đặt chân đến của khu dích tích đó là Bảo tàng Hùng Vương, nơi đây được thiết kế mô phỏng hình ảnh bánh chưng bánh dày và trưng bày nhiều hiện vật từ thời vua Hùng, bảo tàng đã giới thiệu khái quát sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các vua Hùng thông qua các nội dung trưng bày với các chủ đề khác nhau. Hằng năm cứ vào đúng ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch thì khu di tích Đền Hùng lại long trọng tổ chức giỗ tổ Hùng Vương với nhiều hoạt động, sự kiện long trọng nhằm bày tỏ lòng biết ơn, gợi nhớ lại công lao của các vị Vua Hùng đã có công lớn trong việc xây dựng nền móng nước nhà. Cùng với thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tích hợp nhiều giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn dân tộc “Ăn quả nhớ người trồng cây”; “Uống nước nhớ nguồn”; sự đoàn kết sâu rộng của cộng đồng dân tộc tạo nên tính cộng đồng sâu sắc. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành truyền thống quý báu không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Điều đó đã tạo nên triết lý nhân văn sâu sắc, động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn hóa nhân loại. Thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ dòng tộc giữa các Vua Hùng với mọi thế hệ trong cộng đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Đó là sợi dây liên kết các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ thời đại sơ khai của các vua Hùng cho đến thời đại văn minh của Hồ Chí Minh, thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau đậm đà tính dân tộc. Việc tổ chức Giỗ Tổ Hùng vương được Nhà nước, chính quyền địa phương tổ chức trang trọng, trong đó nghi lễ quan trọng nhất là Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Đền Thượng, thể hiện sự biết ơn đối với công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có lễ hội đền Hùng với các trò chơi dân gian và các cuộc thi đậm chất truyền thông như hát Xoan, hát Ghẹo, Hội trại văn hóa. Đến năm 1962 nhà nước ta đã quyết định công nhận Đền Hùng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, đây cũng là một trong 10 di tích được xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp Quốc gia” đợt đầu tiên vào năm 2009. Đền Hùng, khu di tích gắn liền với chiều dài lịch sử của dân tộc và ẩn chứa những giá trị về kiến trúc, văn hóa sâu sắc. Chúng ta cần tự hào và ra sức bảo vệ, phát triển và truyền tải niềm tự hào này đến với bạn bè quốc tế. Xem Thêm Bài 💦 Tả Cảnh Đẹp Đất Nước ❤️️ Ngoài Bài Thuyết Minh Về Đền Hùng Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đền Hùng Chọn Lọc – Bài 10 Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đền Hùng Chọn Lọc giúp các em có thể rèn luyện thêm kĩ năng viết của mình tốt nhất. “Dù ai đi ngược về xuôi,Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba” Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. Đền Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phúc cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương thứ nhất. Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu trong dân gian gọi là mộ tổ từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó. Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống… Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng. Góp phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan tức hát ghẹo, một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến. Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bừng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương. Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông. Chia Sẻ 💦 Bài Văn Tả Cảnh Đẹp Quê Hương Em ❤️️ Ngoài Bài Thuyết Minh Về Đền Hùng Bài Văn Thuyết Minh Về Đền Hùng Điểm 10 – Bài 11 Bài Văn Thuyết Minh Về Đền Hùng Điểm 10 đặc sắc được nhiều bạn đọc chia sẻ trên các diễn đàn văn học sau đây. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi địa danh trên dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta đều in đậm dấu tích của một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. Ngược dòng thời gian, trở về với thời đại dựng nước của các vua Hùng, chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ mãi khắc ghi công lao to lớn ấy. Và Đền Hùng chính là địa danh tiêu biểu, là minh chứng rõ ràng và tiêu biểu nhất cho lòng biết ơn của nhân dân ta đối với các vua Hùng từ ngàn đời nay. Như chúng ta đã biết, Đền Hùng là Khu di tích lịch sử, là một trong số những địa điểm du lịch nổi tiếng bậc nhất ở nước ta. Đền Hùng tọa lạc ở núi Nghĩa Lĩnh, xưa nằm trọn trong đất Phong Châu – kinh đô của nước Văn Lang xưa và ngày nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì của tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích Đền Hùng nằm cách trung tâm của thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ khoảng 10 ki-lô-mét. Được xây dựng từ rất sớm, trải qua thời gian, Khu di tích Lịch sử Đền Hùng ngày càng được chú trọng xây dựng, phát triển và đưa vào quy hoạch, trở thành một trong số những công trình di tích lịch sử tiêu biểu của cả nước. Năm 1962, lần đầu tiên, Đền Hùng được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Khu di tích đặc biệt cấp quốc gia. Năm 1967, Chính phủ đã ra quyết định khoanh vùng để xây dựng khu rừng cấm Đền Hùng. Năm 1994, dự án quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử Đền Hùng lần thứ nhất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để Đền Hùng ngày càng được đầu tư, xây dựng và phát triển. Kể từ đó, Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng phát triển lớn mạnh và đến năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định nâng cấp Khu di tích này từ trực thuộc Sở văn hóa thông tin Phú Thọ thành Khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ. Đặc biệt hơn thế nữa, vào năm 2012, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Khu di tích Đền Hùng, Phú Thọ chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Như vậy, có thể thấy, trải qua quá trình xây dựng và phát triển, khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng phát triển và nhận được sự quan tâm lớn lao của cả cộng đồng, xã hội. Về thăm Khu di tích lịch sử Đền Hùng chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều khám phá, phát hiện độc đáo và thú vị về kiến trúc của công trình này. Quần thể di tích Đền Hùng nằm trọn từ chân núi đến đỉnh núi của ngọn núi Nghĩa Lĩnh với độ cao hơn 175 mét, gồm có bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng và khu lăng mộ của vua Hùng. Điểm đầu tiên khi đến với Đền Hùng đó chính là Đại Môn hay còn gọi là cổng đền. Đại Môn được xây dựng vào năm 1917, cao 8,5 mét với kiểu vòm uốn, gồm hai tầng mái. Ở bốn góc tầng mái, bên trên được trang trí hình rồng và hình hai con nghê đắp nổi. Cùng với đó, nếu bên trái của cổng đền là hình rồng thì phía bên dưới cổng, trên bức tường đó chính là bức phù điêu hai võ sĩ đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Qua Đại Môn, đi khoảng 225 bậc thang bằng gạch là đền Hạ, nhà bia và chùa Thiên Quang. Đền Hạ được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII – XVIII với lối kiến trúc chữ nhị, gồm Tiền bái và Hậu cung. Tương truyền, đây chính là nơi Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng và về sau nở ra 100 người con – nguồn gốc của những người con đất Việt. Cạnh bên đền Hạ chính là nhà bia với kiến trúc lục giác có sáu mái. Nhà bia chính là nơi đặt câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm Đền Hùng vào năm 1954 – “Các vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cạnh bên của đền Hạ còn có chùa Thiên Quang hay còn được gọi là Thiên Quang thiền tự, được xây dựng vào thời nhà Trần. Từ đền Hạ, đi thêm 168 bậc nữa sẽ đến đền Trung, còn có tên là Hùng Vương Tổ Miếu. Được xây dựng vào thời Lí – Trần, đền Trung là nơi vua Hùng cùng các quan họp bàn việc nước và ngắm cảnh núi non. Đồng thời, tương truyền, đây cũng là nơi Lang Liêu đã dâng bánh cho vua cha và được vua cha truyền lại ngôi báu. Sau đền Trung chính là đền Thượng. Đền Thượng còn được gọi với cái tên chữ là Kính thiên lĩnh diện, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XV với quy mô lớn. Theo tương truyền, đây chính là nơi mà Vua Hùng thường lên để tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thờ trời đất,… với mong muốn sẽ có một năm mưa thuận gió hòa để mùa màng tươi tốt và cuộc sống thêm phần hưng thịnh, ấm no. Thêm vào đó, sau khi ghé thăm đền Thượng, chắc hẳn không thể nào không ghé tới lăng của các vị vua Hùng. Theo những truyền thuyết hiện còn lưu lại, đây chính là lăng của vị vua Hùng thứ 6, lăng nằm ở phía đông của đền Thượng, mặt lăng quay theo hướng đông nam. Thêm vào đó, nhắc tới Đền Hùng không thể nào không nhắc tới quần thể đền Giếng. Đền Giếng được xây dựng vào thế kỉ XVIII, đây là nơi hai cô công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa thường soi gương, vấn tóc khi theo vua cha vua Hùng thứ mười tám đi qua nơi này. Ngày nay, Khu di tích lịch sử đền Hùng vừa xây dựng thêm đền Mẫu Âu Cơ và đền thờ Lạc Long Quân. Như vậy, có thể thấy, Khu di tích lịch sử Đền Hùng gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau, được xây dựng từ lâu đời. Đặc biệt, khi nhắc tới Đền Hùng không thể nào không nhắc tới Giỗ tổ Hùng vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm. Giỗ tổ Hùng vương bao gồm phần lễ và phần hội, và thường được diễn ra trước ngày giỗ chính một tuần lễ. Phần lễ bao gồm lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương, còn phần hội bao gồm nhiều trò chơi dân gian, những cuộc thi hát xoan, kéo vật, kéo co,… Giỗ tổ Hùng Vương luôn là dịp lễ thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước về tham dự, là một sự kiện quan trọng trong năm của những người con đất Việt, bởi dân gian ta từ xưa đã có câu ca Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ tổ mồng 10 tháng 3 Ca dao Đền Hùng là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta và có ý nghĩa to lớn trong đời sống của con người Việt Nam từ ngàn đời nay. Trước hết, Đền Hùng nói chung, lễ hội Giỗ Tổ Hùng vương mỗi năm là minh chứng tiêu biểu cho truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Thêm vào đó, Đền Hùng còn là di sản văn hóa, có giá trị sâu sắc, thể hiện lòng biết ơn của sâu sắc đối với các thế hệ đi trước, đặc biệt là các vua Hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Và có lẽ, bởi ý nghĩa to lớn ấy, Đền Hùng đã và đang trở thành nguồn cảm hứng cho thi ca, hội họa và là điểm dừng chân hấp dẫn, thú vị cho du khách trong và ngoài nước. Tóm lại, trải qua quá trình xây dựng, hình thành và phát triển, cho đến ngày hôm nay, Đền Hùng vẫn luôn là một khu di tích lịch sử nổi tiếng, giàu ý nghĩa và là điểm đến lí tưởng cho du khách thập phương. Nơi đây chính là minh chứng tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn, cho những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Đọc Thêm Bài 💦 Tả Cảnh Đẹp Ở Địa Phương Em ❤️️ Ngoài Bài Thuyết Minh Về Đền Hùng Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 8 Hay – Bài 12 Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 8 Hay với hình ảnh miêu tả chân thực đa dạng giàu cảm xúc với câu từ sâu lắng, ngắn gọn. “Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Em cũng đã có dịp may mắn một lần được hành hương về đất Tổ, phong cảnh Đền Hùng đã in sâu trong tâm trí em. Đền Hùng là tên gọi chung cho quần thể đền thờ các vị vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc tỉnh Phú Thọ. Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn ra bốn bề, ta có thể thấy phía xa xa là Ngã ba Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông Hồng. Phía bên trái là dãy Tam Đảo hùng vĩ. Phía bên phải là ngọn Ba Vì mờ mờ xanh ẩn hiện.. Đồng ruộng, đồi cọ, vườn chè, làng xóm trù phú, cảnh đẹp như tranh, vùng trung du trải rộng ra trước mắt. Đây đó rải rác những đầm hồ lớn lấp loáng như gương dưới ánh xuân. Khu di tích lịch sử Đền Hùng bao gồm ba đền chính là Đền Hạ, Đền Trung và Đền Thượng theo thứ tự từ dưới chân núi đi lên. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, ta sẽ bước lên nhiều bậc đá để đi qua cổng, cổng được xây kiểu vòm cuốn cao, tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cống tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí hình rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự “Cao son cảnh hành” Lên núi cao nhìn xa rộng. Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” Đức lớn như núi cao. Mặt sau công đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần. Đền Hạ theo tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 nguời con trai, nguồn gốc “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây. Đền Hạ được xây theo kiến trúc kiểu chữ “nhị” hai vạch ngang chồng lên nhau gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian. Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với có hình lục giác, có sáu mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, sáu mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có sáu cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945 “Các Vua Hùng đã có công dựng nướcBác cháu la phải cùng nhau giữ lấy nước ” Gần Đền Hạ có chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ đã nói chuyên với cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ bốn tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa. Qua đền Hạ, ta lên đến đền Trung. Tương truyền đây là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh giày. Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất một vạch ngang, có ba gian quay về hướng nam. Đền Thượng nằm cao nhất, được đặt trên đỉnh núi Hùng. Đền Thượng có tên chữ là “Kinh thiên lĩnh điện” Điện cầu trời. Trong Đền Thượng co bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” khai sáng nước Việt Nam. Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước. Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong tám góc, tạo thành hai tầng mái. Tầng trên và dưới bốn góc đều đắp bốn con rồng, đỉnh lăng đắp hình “quá ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái hình mui. Phía trong lăng có bia đá ghi Biểu chính lăng chính. Phía trên ba mặt lăng đều có đề Hùng Vương lăng lăng Hùng Vương. “Đi qua xóm núi Thậm ThìnhBâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm” Quả thực, ai đã từng đến với Đền Hùng, được một lần sống trong cảm giác thiêng liêng nhuốm sắc màu huyền thoại như thế của lịch sử thì đâu cần đi qua “xóm núi Thậm Thình”, dù ở bất cứ nơi đâu, trong lòng ta cũng luôn nhớ đến “nước non mình nghìn năm”. Đọc Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Đặc Sản Quê Em ❤️️21 Món Ăn Đặc Sản Hay Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 9 Ngắn – Bài 13 Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 9 Ngắn sẽ mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm thú vị với địa danh nổi tiếng này. Khu Di tích lịch sử mảnh đất này thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Phía đông với các dãy núi non trung điệp. Vùng đất này có nhiều sông ngòi ao hồ, đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì nhiêu do phù xa của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc xung đột bộ lạc. Hiện nay dấu vết cư trú của dân cư thời đại các vua Hùng còn để lại trong hàng chục di chỉ khảo cổ học, được phân bố dày đặc từ huyện Lâm Thao tới ngã ba Bạch Hạc – Việt Trì. Những di chỉ khảo cổ học đo là minh chứng một thời đại, với nghề luyện kim đồng thau và trồng lúa nước của một nền văn minh nông nghiệp, đã từng tồn tại trược công nguyên hàng nghìn năm. Đền Hùng là trung tâm, là tiêu điểm về thời đại các vua Hùng, các ngôi đền thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn gọi là núi Cả theo địa phương hay các tên khác núi Hùng, núi Hy Cương, có độ cao 175 mét so với mặt nước biển. Trước kia khu vực này là cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay núi Hùng vẫn giữ dáng vẻ của rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau, gồm 150 loài thảo mộc, thuộc 35 họ, trong đó còn lại một số cây đại thụ lớn như đa, thông, thiên tuế, trò Gợi Ý Bài ⏩ Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống ❤️️15 Mẫu Hay Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 10 Sinh Động – Bài 14 Cùng chia sẻ đến các bạn đọc bài văn hay Thuyết Minh Về Đền Hùng Lớp 10 Sinh Động được nhiều bạn đọc quan tâm sau đây. Đền Hùng là Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì- nơi cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Nơi đây có địa thế cao hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ hội tụ, là nơi thờ cúng các Vua Hùng đã có công dựng nước, Tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cảnh quan Đền Hùng luôn được các thế hệ “con Lạc, cháu Hồng” gìn giữ và thường xuyên tu bổ, tôn tạo nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, tôn nghiêm tại các công trình trong quần thể Khu Di tích. Tương truyền Đền Hạ là nơi, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “Mắt Rồng” là nơi Mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau Đền. Cạnh Đền Hạ là Thiên quang thiền tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc. Các tòa được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Tương truyền, Đền Trung là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây Vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh giầy. Đền Thượng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện” Điện cầu trời còn có tên là “Cửu trùng tiên điện” Điện giữa chín tầng mây. Trong Đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” Tổ khai sáng nước Việt Nam. Đền được làm kiểu chữ Vương. Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Đền Giếng là nơi thờ hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời. Đền được xây dựng vào thế kỷ XVIII. Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được xây dựng trên núi Sim trong quần thể Di tích lịch sử Đền Hùng được khánh thành vào Giỗ Tổ Hùng Vương- Lễ hội Đền Hùng năm Kỷ Sửu 2009. Đền Tổ mẫu Âu Cơ được bắt đầu xây dựng trên núi Vặn vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004, theo kiến trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Tặng Bạn 🌵 Thẻ Cào Miễn Phí ❤️ Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Thuyết Minh Về Đền Hùng Bằng Tiếng Anh – Bài 15 Thuyết Minh Về Đền Hùng Bằng Tiếng Anh ấn tượng giúp các em trau dồi thêm cho mình nhiều kĩ năng ngoại ngữ. Hung Temple, the relic worshiping King Hung, is located on Nghia Linh mountain, Phu Ninh district, Phu Tho province, every year on the 10th day of the third lunar month, this place holds a huge Hung Temple festival. Starting from the foot of the mountain, we came across the Ha Temple, which is said to be the place where Mother Au Co gave birth to a bag of hundreds of eggs. Continuing to move up will be Trung Temple, an important place where the king and mandarin meetings are held to discuss the country. The highest is the Upper Temple, the supreme position used to worship the gods according to ancient beliefs. Next to it is the Well Temple, a temple built in the 18th century, according to folklore, this is where Princess Tien Dung and Princess Ngoc Hoa looked in the mirror. Tạm dịch Đền Hùng khu di tích thờ phụng Vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch nơi này tổ chức lễ hội Đền Hùng rất lớn. Bắt đầu từ chân núi đi lên chúng em bắt gặp đền Hạ, tương truyền kể rằng đây là nơi Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng. Tiếp tục di chuyển lên sẽ là đền Trung, vị trí quan trọng nơi tổ chức họp bàn việc nước của vua và quan. Cao nhất là đền Thượng, vị trí tối cao dùng để thờ cúng các vị thần theo tín ngưỡng xưa. Kế bên đó là đền Giếng, ngôi đền xây dựng trong thế ký 18, theo dân gian tương truyền đây là nơi công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa soi gương. Hướng Dẫn 🌵 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí ❤️️ Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới 1. Đôi nét về Đền Hùng2. Ý nghĩa, giá trị lịch sử, văn hóa của Đền Hùng3. Hành trình tham quan di tích lịch sử Đền Cổng Đền Hạ gắn với truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” Đền Đền Đền Đền Tổ mẫu Âu Đền thờ Lạc Long Bảo tàng Hùng Vương4. Tìm hiểu về lễ hội Đền Hùng5. Kinh nghiệm du lịch Đền Hùng cần Thời gian nên Các cách di Giá vé tham quan quần thể di tích Đền Kinh nghiệm đi Đền Hùng ăn gì? Một số lưu ý khác Khu di tích lịch sử Đền Hùng là điểm đến tâm linh có ý nghĩa đặc biệt trong tín ngưỡng người Việt Nam. Đây là nơi thờ tự 18 đời Vua Hùng đã có công dựng nước. Vào dịp đầu xuân năm mới hoặc Giỗ Tổ 10/3 Âm lịch, hàng triệu người sẽ đổ về đây dâng hương, lễ bái, tri ân các vị Tổ tiên của dân tộc. 1. Đôi nét về Đền Hùng Khi giới thiệu về Đền Hùng, điều đầu tiên cần phải được đề cập chính là “Đền Hùng ở đâu?”. Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền Hùng là nơi thờ cúng 18 đời vua Hùng Vương và tôn thất của nhà vua, những người đã có công dựng nước, được xem là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Đền Hùng – khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Ảnh Sưu tầm Xưa kia vùng đất này là kinh đô của nước Văn Lang, được bao bọc bởi hai dòng sông và những dãy núi non trùng điệp. Chính địa thế đó đã khiến nơi đây có nhiều sông ngòi, ao hồ, núi đồi và phù sa màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho con người định canh định cư, đồng thời cũng dễ dàng phòng thủ, hoặc rút lui trong trường hợp xảy ra xung đột. Theo các tài liệu khoa học, quần thể Đền Hùng bắt đầu được xây dựng trên núi Hùng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng năm 968 – 979. Sau đó, đến khoảng thế kỷ XV, dưới thời Hậu Lê, toàn bộ khu di tích được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện nay. Đền Hùng có tổng diện tích 845 ha với 4 ngôi đền, 1 ngôi chùa, 1 lăng cùng nhiều hạng mục kiến trúc khác, phân bố từ chân núi lên đến đỉnh núi, hài hòa với tổng thể cảnh quan hùng vĩ. Qua thời gian, nhiều di tích trong quần thể Đền Hùng đã được tôn tạo và xây dựng bổ sung nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, nghiêm trang. Suốt hàng ngàn năm qua, Đền Hùng Phú Thọ là biểu tượng linh nghiêm, tôn kính, gắn liền với đời sống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc. Lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức vào mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm đã đi vào tiềm thức mỗi người Việt Nam với câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi – Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”. Người người nô nức đi Đền Hùng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương Ảnh Sưu tầm Hàng năm đến ngày này, hàng triệu người Việt Nam thuộc các thế hệ “con Rồng cháu Tiên” lại nô nức về với đất Tổ để dâng hương tại Đền Hùng nhằm bày tỏ lòng thành kính tri ân đến Tổ tiên, nhớ về cội nguồn dân tộc và cầu mong bình an, sức khỏe cùng những điều tốt đẹp. >>> Khám phá Du lịch tâm linh là gì? 10 địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng Việt Nam 2. Ý nghĩa, giá trị lịch sử, văn hóa của Đền Hùng Với giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, Đền Hùng được xếp hạng là khu di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói, Đền Hùng là nơi hội tụ những giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Điều này thể hiện hết sức cụ thể, sinh động thông qua tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội lớn ở Việt Nam mang tầm vóc quốc gia, thu hút sự quan tâm của tất cả những người Việt Nam chảy trong mình dòng máu “con Rồng cháu Tiên”, dù đang sống trong nước hay ở nước ngoài. Lễ hội Đền Hùng – Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO công nhận Ảnh Sưu tầm Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ năm 2012 chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nhờ những giá trị độc đáo và riêng biệt. Đây là dấu mốc quan trọng và vinh dự to lớn không chỉ với người dân đất Tổ mà còn với cả dân tộc. 3. Hành trình tham quan di tích lịch sử Đền Hùng Từ chân núi Hùng lên đỉnh núi Hùng, bạn sẽ được tham quan, khám phá hệ thống các đền, chùa, lăng cùng nhiều hạng mục kiến trúc khác trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng. Cổng đền Cổng đền của Đền Hùng được xây dựng vào năm 1917, tức năm Khải Định thứ 2. Cổng có hình vòm cuốn cao 8,5m, bao gồm hai tầng tám mái, lợp giả ngói ống. 4 góc tầng mái trang trí hình Rồng và đắp nổi hai con Nghê. Giữa tầng 1 bức đại tự đề 4 chữ “Cao sơn cảnh hành”, tạm dịch là “lên núi cao nhìn xa rộng”. Mặt sau cổng đền có đắp hai con hổ mang ý nghĩa là hiện thân của vật canh giữ thần. Cổng đền Hùng Ảnh Sưu tầm Đền Hạ gắn với truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” Tương truyền Đền Hạ là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng. Phía sau đền ngày nay vẫn còn dấu tích của giếng “Mắt Rồng” nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng khi xưa. Đền Hạ được xây dựng khoảng thế kỷ XVII – XVIII trên nền đất cũ. Kiến trúc của đền theo hình chữ “nhị”, gồm hai tòa tiền bái và hậu cung, nằm cách nhau 1,5m, mỗi tòa có 3 gian. Kiến trúc đền khá đơn sơ không có nhiều họa tiết mỹ thuật trang trí cầu kỳ. Đền Hạ Đền Hùng có kiến trúc tối giản Ảnh Sưu tầm Ngay chân đền là nhà bia hình lục giác có 6 mái. Bên trong mái lợp gạch bìa, bên ngoài láng xi măng. Trong nhà bia hiện nay đặt tấm bia đá ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Bác thăm Đền Hùng ngày 19/09/1945 “Các Vua Hùng đã có công dựng nước – Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” Nằm cạnh Đền Hạ là Thiên quang thiền tự, trước đây gọi là Sơn cảnh thừa long tự. Đây là chùa thờ Phật theo hệ phái Đại thừa. Trước sân chùa có tháp sư hình trụ cao 4 tầng thờ cúng các vị hòa thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa. Trong chùa còn có một gác chuông, ở đó treo quả chuông được đoán là đúc vào thời Hậu Lê. Đền Trung Đền Trung ở Đền Hùng còn gọi là Hùng Vương Tổ miếu được tương truyền là nơi các Vua Hùng ngắm cảnh và luận bàn việc nước cùng chư vị Lạc hầu, Lạc tướng. Đây cũng chính là nơi gắn liền với sự tích vua Hùng thứ 6 truyền ngôi cho Lang Liêu – vị hoàng tử đã làm ra bánh chưng bánh dày. Đền có kiến trúc kiểu chữ “nhất” với 3 gian tường hồi bít đốc, không có cột kèo, mở 3 cửa trước nhìn về hướng Nam. Chiều dài 7,2m, chiều rộng 3,7m, phần mái hiên cao 1,8m. Đền Trung – Hùng Vương Tổ Miếu ở Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Đền Thượng Đền Thượng là đền cao nhất trong quần thể Đền Hùng, nằm trên đỉnh núi, có tên chữ là Kính Thiên Lĩnh điện Điện cầu trời hoặc Cửu trùng thiên điện Điện giữa chín tầng mây. Tương truyền rằng khi xưa đây là nơi các vua Hùng tổ chức lễ tế trời đất và thần lúa để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân khang vật thịnh. Đồng thời, đây cũng là nơi gắn với sự tích Hùng Vương thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh thắng giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng dẹp giặc và bay về trời, vua cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi. Về sau, nhân dân đặt bài vị vua Hùng vào để thờ cúng. Kiến trúc đền Thượng theo kiểu chữ “vương”, trang trí đơn giản, không chạm trổ cầu kỳ và gồm có 4 cấp cấp I – nhà chuông trống, cấp II – đại bái, cấp III – tiền tế và cấp IV – hậu cung. Đền Thượng Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Bên trái đền có một cột đá thề hình vuông, cao 1,3m, rộng 0,3m. Tương truyền cột đá này do An Dương Vương Thục Phán dựng lên để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước và đời đời trông nom miếu vũ họ Vương khi được Hùng Vương thứ 18 truyền ngôi. Phía đông Đền Thượng Đền Hùng là Lăng Hùng Vương có địa thế đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt hướng về phía Đông Nam. Tương truyền đây là mộ của vua Hùng thứ 6. Ban đầu đây là mộ đất, đến năm Tự Đức thứ 27 1870 được xây mộ dựng lăng và trùng tu lại vào năm Khải Định thứ 7 1922. Đền Giếng Đền Giếng ở Đền Hùng có tên chữ là Ngọc Tỉnh, tương truyền là nơi hai vị công chúa của Hùng Vương thứ 18 là Tiên Dung và Ngọc Hoa thường soi gương, vấn tóc. Hai bà có công lớn trong việc dạy dân trồng lúa nước và trị thủy nên được lập đền thờ phụng muôn đời tại đây. Đền được xây dựng khoảng thế kỷ XVIII, có kiến trúc kiểu chữ “công”, mặt hướng về phía Đông Nam với ba nhà tiền bái 3 gian, hậu cung 3 gian, 1 chuôi vồ và 2 nhà oản 4 gian. Nhà tiền bái và nhà hậu cung được nối liền bởi phương đình. Ngoài ra, cổng đền có kiểu cách gần giống cổng chính nhưng nhỏ hơn và thấp hơn. Đền Giếng Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Đền Tổ mẫu Âu Cơ Đền Tổ mẫu Âu Cơ là công trình được xây dựng năm 2001 và khánh thành cuối năm 2004. Trong đền đặt tượng thờ Mẹ Âu Cơ và các Lạc hầu, Lạc tường. Đường lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu. Đền được xây dựng trên núi Vặn với kiến trúc kiểu truyền thống. Các cột, xà, hoành, dui làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, tường xây bằng gạch bát. Đền chính kiến trúc kiểu chữ “đinh”, diện tích 137m2. Bên cạnh đó là nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà bia, trụ biểu, tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa viên. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ trong quần thể di tích Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Đền thờ Lạc Long Quân Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân trong quần thể di tích Đền Hùng được khởi công năm 2006 và khánh thành năm 2009 tại núi Sim. Đây là vị trí đắc địa với thế “sơn chầu thủy tụ”, cảnh quan hùng vĩ, uy linh. Đền đặt tượng đồng của Quốc Tổ Lạc Long Quân, và các Lạc hầu, Lạc tướng để nhân dân thờ cúng. Đền có kiến trúc kiểu chữ “đinh” sử dụng vật liệu chính là gỗ lim, sơn son thếp vàng. Phần tường bao dùng gạch chỉ màu đỏ. Phần mái lợp ngói mũi hài. Các công trình trong đền thờ Lạc Long Quân bao gồm Cổng đền, Phương đình, Tả Vũ, Hữu Vũ, trụ biểu, đền thờ. Toàn cảnh đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân tại Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Bảo tàng Hùng Vương Quá trình xây dựng Bảo tàng Hùng Vương ở Đền Hùng kéo dài trong 7 năm, từ 1996 đến 2003. Kiến trúc bảo tàng được Hội kiến trúc sư Việt Nam thiết kế với quan niệm trời tròn, đất vuông phỏng theo truyền thuyết bánh Chưng bánh Dày. Bảo tàng trưng bày các hiện vật, tranh ảnh… khắc họa một chủ đề xuyên suốt là “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”. Tại bảo tàng hiện lưu giữ 700 hiện vật gốc trên tổng số 4000 hiện vật. Ngoài ra còn có 162 bức ảnh, 4 bức tranh bằng gốm, 5 bức tranh chất liệu sơn mài, 9 chiếc gò đồng, 5 hộp đựng hình ảnh, một bộ sưu tập tượng lớn… Tranh sứ Hùng Vương và những người con trai trong Bảo tàng Hùng Vương tại Đền Hùng Ảnh Sưu tầm >>> Gợi ý Giỗ tổ Hùng Vương đi đâu chơi? TOP 20 địa điểm du lịch ĐẸP & HOT nhất 2023 4. Tìm hiểu về lễ hội Đền Hùng Địa điểm diễn ra lễ hội Khu di tích lịch sử Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ Thời gian tổ chức Ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm Lễ hội Đền Hùng được công nhận là một trong những ngày quốc giỗ của nước Việt Nam. Từ năm 2007, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 Âm lịch là ngày nghỉ lễ chính thức. Theo quy định, những năm kỷ niệm chẵn chữ số cuối cùng là 0 hoặc năm tròn chữ số cuối cùng là 5, lễ hội sẽ được tổ chức tại Đền Hùng với quy mô cấp trung ương. Các năm còn lại sẽ tổ chức quy mô cấp tỉnh, do tỉnh Phú Thọ chủ trì. Các hoạt động chính trong Lễ hội Đền Hùng bao gồm phần Lễ và phần Hội. Phần Lễ bao gồm lễ rước kiệu và lễ dâng hương tại đền Thượng. Hai lễ sẽ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội mùng 10 tháng 3 Âm lịch Lễ rước kiệu vua Đám rước kiệu sẽ mặc trang phục truyền thống sẽ rước lọng, kiệu với cờ hội, vòng hoa rực rỡ, theo nhịp trống trong suốt hành trình sẽ xuất phát từ dưới chân núi, ghé lần lượt các đền trước khi lên tới Đền Thượng Đền Hùng làm lễ dâng hương. Lễ dâng hương Lễ này sẽ được thực hiện bởi một vị lãnh đạo đại diện để cầu mong các vị Thánh Tổ phù hộ cho quốc thái, dân an, mưa thuận gió hòa, bách gia trăm họ, vạn đại trường tồn, mạnh khỏe, bình an, vui hưởng thái hòa… Lễ dâng hương trong khuôn khổ Lễ hội Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Phần Hội của lễ hội Đền Hùng bao gồm nhiều trò chơi dân gian thú vị, đặc sắc được tổ chức nhằm thể hiện và tôn vinh những giá trị truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc. Các hoạt động nổi bật có thể kể đến như hát xoan – hình thức dân ca đặc trưng của vùng Phú Thọ, đấu vật, kèo co, bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc – nơi Vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh khi xưa, thi gói bánh chưng bánh dày… 5. Kinh nghiệm du lịch Đền Hùng cần biết Nếu đang có dự định du lịch Đền Hùng, hãy bỏ túi ngay những thông tin quan trọng cần biết dưới đây để có chuyến đi thuận lợi Thời gian nên đi Thời điểm lý tưởng để đi Đền Hùng là dịp đầu năm, khoảng tháng 2 đến tháng 5. Lúc này thời tiết đặc biệt mát mẻ, dễ chịu, việc di chuyển nhiều sẽ không bất tiện và khó chịu như trong mùa hè nắng nóng. Đặc biệt, nếu đi vào đúng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 Âm lịch, bạn sẽ được chứng kiến lễ hội vô cùng quy mô, hoành tráng và cảm nhận không khí hân hoan, nhộn nhịp. Vào ngày này, đông đảo người dân cả nước sẽ nô nức, tấp nập đi trẩy hội Đền Hùng để dâng hương bày tỏ sự tri ân thành kính đến các vị Tổ tiên và tham gia vào những hoạt động đặc sắc trong lễ hội. Thời gian phù hợp để đi Đền Hùng là khoảng tháng 2 đến tháng 5 Ảnh Sưu tầm Các cách di chuyển Để đến Đền Hùng bạn có thể lựa chọn một trong những cách di chuyển sau đây – Xe máy, ô tô tự lái Nếu đi phương tiện cá nhân tới Đền Hùng, có 2 cung đường để bạn lựa chọn Cung đường 1 Từ trung tâm Hà Nội, bạn đi đường quốc lộ 32C đến Ba Vì, đi qua cầu Trung Hà. Sau đó, bạn di chuyển tiếp đến cầu Phong Châu và đi thêm khoảng 20km nữa là đến. Cung đường 2 Bạn đi theo tuyến đường ra sân bay Nội Bài, qua cầu Thăng Long, đến Quốc lộ 2 thì đi tiếp đến cầu Việt Trì. Sau khi đi qua trung tâm thành phố, bạn rẽ trái và đi thêm 10km nữa sẽ đến Đền Hùng. – Xe khách Để đi xe khách đến Đền Hùng, bạn bắt chuyến xe Hà Nội – Phú Thọ từ Bến xe Mỹ Đình và báo nhà xe cho xuống ở Đền Hùng. Tổng thời gian di chuyển khoảng chừng 2 tiếng. – Tàu hỏa Từ ga Hà Nội, bạn chọn đi một trong hai chuyến tàu Hà Nội – Việt Trì là YB3 và SP3. YB3 Tàu xuất phát từ ga Hà Nội lúc 6h10, dừng tại ga Việt Trì lúc 8h20. SP3 Tàu xuất phát từ ga Hà Nội lúc 22h, dừng tại ga Việt Trì lúc 23h50. Từ ga Việt Trì bạn đi bộ ra đường Hùng Vương đón xe buýt số 19 hoặc đi xe ôm, taxi để đến Đền Hùng. Giá vé tham quan quần thể di tích Đền Hùng Giá vé tham quan quần thể di tích Đền Hùng bao gồm một số mức phí sau đây Vé đi xe điện VNĐ/người Vé vào bảo tàng VNĐ/người Vé thăm các ngôi đền VNĐ/người Kinh nghiệm đi Đền Hùng ăn gì? Khi du lịch Đền Hùng, bạn hãy tranh thủ thưởng thức một số món ăn đặc sản trứ danh của đất Phú Thọ, chẳng hạn như Bánh tai Phú Thọ Thịt chua Thanh Sơn Cọ ỏm Bánh chưng làng Dòng Bánh sắn Thịt chua Thịt chua – món đặc sản Phú Thọ hút khách tại Đền Hùng Ảnh Sưu tầm Một số lưu ý khác Quần áo Khi đi Đền Hùng bạn nên mặc trang phục gọn nhẹ, thoải mái để thuận tiện di chuyển nhưng phải đảm bảo lịch sự, đứng đắn, không hở hang. Giày dép Nên đi giày thể thao, loại có đế bám tốt vì di chuyển và leo núi nhiều. Trong mùa hè có thể mang theo cả dép tổ ong để đi cho thoải mái. Bảo vệ tài sản cá nhân Trong tình trạng đông người tập trung ở Đền Hùng, bạn hãy luôn chú ý bảo vệ tài sản cá nhân như điện thoại, ví tiền… Bạn hãy quay balo, túi về phía trước để trông được tài sản của bản thân. Luôn mặc cả để tránh bị “chặt chém” Bạn hãy luôn hỏi giá trước khi mua đồ hay sử dụng bất cứ dịch vụ gì tại Đền Hùng và trả giá hợp lý rồi mới thanh toán. Theo thông báo chính thức, lịch nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương 2023 kéo dài 5 ngày, từ 29/04 đến hết 3/5. Trong thời gian này, bạn có thể cùng gia đình, bạn bè về Phú Thọ tham gia vào lễ hội Đền Hùng hoặc lên kế hoạch du lịch ở những địa điểm thú vị trong nước như Phú Quốc, Đà Nẵng, Vũng Tàu, đảo Phú Quý, Nha Trang, Hội An… Bên cạnh Đền Hùng, những khu vui chơi giải trí trên khắp cả nước cũng là “tọa độ” thu hút đông đảo du khách ghé thăm vào dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ. Gợi ý lý tưởng để bạn tranh thủ dành thời gian vui chơi thỏa thích, xả stress cực hiệu quả, nạp lại năng lượng hứng khởi chính là các điểm đến hấp dẫn của VinWonders VinWonders Phú Quốc Công viên chủ đề lớn nhất Việt Nam, hàng đầu châu Á có tổng cộng 6 phân khu, tượng trưng cho 6 vùng lãnh địa với 12 khu chủ đề đặc sắc, đầy cuốn hút, gồm hơn 100 trò chơi được lấy cảm hứng từ các nền văn minh nổi tiếng của nhân loại và các câu chuyện cổ tích, giai thoại thế giới… VinWondes Phú Quốc – một trong những tọa độ vui chơi giải trí lý tưởng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương Grand World Phú Quốc Đây là tổ hợp vui chơi, giải trí, mua sắm đẳng cấp, được mệnh danh là “thành phố không ngủ”, thuộc Phú Quốc United Center. Tại đây có 23 khu vực chức năng riêng biệt phục vụ nhu cầu của du khách với một số hoạt động đặc sắc như vãn cảnh sông Venice trên thuyền Gondola phiên bản Việt, tham quan nhà gấu Teddy Bear Museum, check-in công viên Urban Park ấn tượng… Vãn cảnh sông Venice trên thuyền Gondola phiên bản Việt tại Grand World Phú Quốc Vinpearl Safari Phú Quốc Là công viên chăm sóc và bảo tồn động vật bán hoang dã đầu tiên và lớn nhất Việt Nam, Vinpearl Safari Phú Quốc hiện là “ngôi nhà chung” của hàng ngàn cá thể động vật thuộc hàng trăm loài từ các vùng tự nhiên trên thế giới, trong đó rất nhiều loài nguy cấp cần được bảo tồn. Tìm hiểu thế giới động vật tại Vinpearl Safari Phú Quốc VinWonders Nha Trang Nằm trong quần thể Vinpearl Nha Trang trên đảo Hòn Tre, VinWonders Nha Trang được mệnh danh là “công viên giải trí của những kỷ lục” nhờ hàng loạt kỷ lục như bánh xe bầu trời cao 120m lọt Top 10 vòng xoay cao nhất thế giới, zipline dài 880m với 3 cú “hattrick” Dài nhất – Dốc nhất và Cú nhảy tiếp đất cao nhất Việt Nam… Công viên có tổng cộng 6 phân khu trò chơi hứa hẹn sẽ đưa bạn bước vào chuyến chu du kỳ thú và đặc sắc cùng nhiều trải nghiệm khó quên. Thỏa thích vui chơi tại VinWonders Nha Trang VinWonders Nam Hội An Tọa lạc tại mảnh đất di sản Hội An, VinWonders Nam Hội An không chỉ đơn thuần là công viên giải trí, mà còn là tổ hợp trải nghiệm kết hợp bảo tồn các giá trị văn hóa – nghệ thuật – kiến trúc đa quốc gia, được ví như “nơi tôn vinh giá trị di sản”. Trong hành trình khám phá 5 phân khu của công viên, bạn sẽ bước vào thế giới rực rỡ của những tinh hoa văn hóa đặc sắc, hòa hợp một cách hoàn hảo với sự sôi động, phấn khích của một khu vui chơi giải trí đẳng cấp quốc tế. Trải nghiệm làng nghề truyền thống tại VinWonders Nam Hội An VinKE & Vinpearl Aquarium Đây là tọa độ vui chơi giải trí đình đám hàng đầu Thủ đô Hà Nội, tọa lạc trong trung tâm thương mại Vincom Mega Mall Times City VinKE là Khu vui chơi giải trí & giáo dục hướng nghiệp được các gia đình có con nhỏ đặc biệt ưa chuộng. Tại đây các bé sẽ được tham gia những hoạt động trải nghiệm lý thú giúp phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, trí tuệ. Thủy Cung Vinpearl Aquarium được ví như “đại dương thu nhỏ giữa lòng thành phố” với bể chứa có diện tích dung tích gần 3 triệu lít nước biển, là môi trường sống của hơn cá thể sinh vật biển có nguồn gốc từ “năm châu bốn bể”. Ngoài ra, bạn còn được tìm hiểu về nhiều loài cá nước ngọt, các loài côn trùng, bò sát, cùng hàng trăm mẫu vật sinh vật thủy sinh. Khám phá Thủy cung Times City >>> Booking vé vào cửa vui chơi siêu ưu đãi tại các điểm đến của VinWonders! Sắp tới lễ Giỗ Tổ Hùng Vương rồi, nếu bạn đã sẵn sàng cho hành trình về với nơi đất Tổ linh nghiêm, cội nguồn của dân tộc, vậy hãy bỏ túi ngay những kinh nghiệm ghé thăm Đền Hùng chi tiết trên đây. Chúc bạn có một chuyến đi trọn vẹn và đáng nhớ. >>> Đừng quên đặt ngay vé vào cửa các điểm đến của VinWonders nếu bạn có kế hoạch ghé thăm Hà Nội, Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang hay Phú Quốc trong kỳ nghỉ lễ để có chuyến đi sôi động, lý thú và đầy hứng khởi nhé!

về với đền hùng